Thứ Năm, 7 tháng 6, 2012

ƠN ĐỜI CHỨA CHAN

 
Tuổi già, buổi sáng thức dậy, nghe gân cốt đau rêm mà mừng, vì biết
mình còn sống.
Đại ý viết như vậy, trong một cuốn sách Mỹ mà ông Tư đọc được, làm ông
thấm thía cái hạnh phúc lâng lâng của từng sớm mai khi vừa tỉnh giấc.
 
 
Bạn bè cùng trang lứa với ông, nhiều người đã về với Diêm Vương khi
còn trẻ măng, vì cuộc tương tàn khốc liệt dài ngày trên quê hương.
Nhiều người khác gục ngã trong trại tù vì đói khát, bệnh tật, mồ hoang vùi cạn.
 
Một số khác nữa, vì khao khát tự do mà chôn thân dưới đáy biển, hoặc
chết khô giữa rừng sâu.
 
Không ít người còn lại, tử thần cũng đã đón mời vì bạo bệnh, khi tuổi
năm sáu mươi.
 
 
 
Phần ông vẫn còn dai dẳng sống sót cũng là ân huệ trời ban, không vui
hưởng tháng ngày, cũng uổng lắm sao!
 
 
 
 
Ý nghĩ đó làm ông mỉm cười sung sướng.
Ông vẫn trùm thân trong chăn ấm. Tội chi mà dậy sớm cho mệt.
Mỗi khi nghe tiếng khởi động máy xe từ hàng xóm vọng qua trong buổi
tinh sương, ông càng vui sướng hơn, vì không còn phải vùng dậy giữa
đêm đen, lặn lội đi kiếm cơm hàng ngày như mấy gã trẻ tuổi ở cạnh nhà.
 
 
Về hưu rồi, mỗi tuần hưởng bảy ngày chủ nhật, bảy ngày thảnh thơi.
Hết áp lực của công việc hàng ngày, không phải lo lắng bị thất nghiệp
khi kinh tế khủng hoảng xuống dốc. Khoẻ re.
 
 
Cứ nằm trùm chăn ấm nghe nhạc mềm văng vẳng ru đưa, phát ra từ cái
radio nhỏ, có khi ông chợp thêm được một giấc ngủ ngắn ngon lành. Ngủ
chán thì dậy. Bước xuống giường, dù khớp xương sưng đau, đi khập khễnh
ông cũng thầm cám ơn cái chân chưa liệt, còn lê lết được. Chưa phải
nằm dán lưng vào giường như một số người bất hạnh khác.
Những kẻ này mà nhích được vài bước cà thọt như ông, thì chắc họ cũng
sướng rân người.
 
 
Ông thầm bảo, có thêm được một ngày để sống, để vui, để yêu đời.
Bệnh hoạn chút chút, thì phải mừng, chứ đừng có nhăn nhó than vãn ỉ ôi.
 
 
 
 
 
 
 
Mỗi khi đánh răng rửa mặt, ông lầm thầm: “Mình sướng như vua rồi, có
nước máy tinh khiết để dùng.
Giờ nầy, cả thế giới, có hơn một tỉ người thiếu nước để nấu ăn, để tắm
giặt và nhiều tỉ người khác không có nước sạch, phải uống nước dơ
bẩn”. Dù cái bàn chải đánh răng đang ngọ ngoạy trong hàm, ông cũng ư ử
hát ca. Khi áp cái khăn tẩm đầy nước lên mặt, ông cảm được cái mát
lạnh và niềm sung sướng chứa chan đang lan tỏa chạy khắp người.
 
 
Ông biết đang được ân sủng của trời đất ban cho trong tuổi già. Ông cứ
nhớ mãi thời đi tù Cộng Sản, mỗi ngày chỉ có được một lon nước chừng
một lít, để rửa ráy tắm giặt. Chừng đó thôi, mà cũng xong việc. Khi
ấy, thấm cái khăn ướt lau khắp người, nghe mát rượi, đã đời, và khi
còn lại một phần nước cặn đen ngòm dưới đáy lon, cầm đổ lên đỉnh đầu,
sướng đến rên lên được.
 
 
Ngồi lên cái bồn cầu êm ái, nhà cầu sạch sẽ, trắng toát, thơm tho,
không vướng một chút mùi vị hôi hám, đèn đóm lại sáng trưng, có nhạc
văng vẳng từ radio, ông cầm cuốn sách thưởng thức chữ nghĩa của “thánh
hiền”, tư tưởng của Đông Tây.
 
 
Không bao giờ ông quên cùng giờ phút nầy, có hơn ba tỉ nhân loại không
có cầu tiêu để làm cái chuyện khoái lạc thứ tư. Có người phải ra đồng
lồng lộng gió, mà làm chuyện “nhất quận công, nhì ị đồng”. Phải gấp
gấp cho xong chuyện, không nhẩn nha được, vì hai tay phải múa lia lịa
hất ra đàng sau, để xua đuồi lũ ruồi đồng đang vo ve “oanh tạc”. Xong
việc, may mắn lắm thì có lá chuối khô mà lau chùi, còn không thì dùng
đất cày, đá cục, nắm cỏ, que nhánh cây tươi, khô. Ông cứ nhớ thời làm
việc ở quận lị, chỉ có nhà tiêu lộ thiên, hai tấm ván bắt ngang qua
một hầm cầu lộ thiên, nắng xông hơi phân người
 lên nóng hừng hực rát cả mặt, bên dưới giòi bọ lúc nhúc lổm nhổm làm
thành một tấm màn trắng-ngà chuyển động. Có con gà ở đáy hầm, nó đang
thưởng thức ngon lành món giòi bọ, thấy ông xuất hiện bất thần, sợ hãi
 hoảng hốt đập cánh bay lên kêu quang quác  và vung vãi ‘ám khí’ khắp
trong không gian, làm ông cũng khiếp viá, ôm đầu phóng chạy dài.
 
 
Nghĩ đến chừng đó thôi là ông đủ cảm được cái sung sướng đang có ngay
bây giờ. Ngồi thật lâu, đọc cho xong mấy trang sách, mới nhởn nhơ rời
phòng.
 
 
 
 
 
 
 
Ông Tư tự đãi một bình trà nóng, một ly cà phê thơm, rồi nấu nồi cháo
gạo tẻ đặc rền ăn với cá kho mặn.  Dọn ra bàn, đèn vàng soi một khoảng
ấm cúng. Ông thong thả vừa hớp nhâm nhi, vừa ăn từng muỗng cháo, chất
gạo béo tạo vị giác đi qua trong cổ họng.
Ông lầm thầm:“Ngon, cao lương mỹ vị cũng không bằng”. Ông thường ngâm
nga hai câu thơ :
 
 
“Vợ cũ, chó già, tô cháo nóng.
Ba nguồn thân thiết dạt dào thương”.
 
 
Mắt ông dán vào trang thơ đang cầm trên tay, gật gù thưởng thức ý lời
hoa gấm. Ông trầm mình vào những giòng thơ, tim xao xuyến xúc động
mênh mang.
 
 
Thỉnh thoảng ông dừng lại, và nói nhỏ cho chính ông nghe: “Tiên trên
trời cũng chỉ sướng và thong dong như thế này là cùng”.
 
 
Ông nhớ đến cái thời “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội
chủ nghĩa”, buổi sáng bụng đói meo, vác cuốc đi làm lao động tay chân
nặng nhọc, ráng uống một bát nước lã để cầm hơi và đánh lừa cái bụng
đang sôi sồn sột.
 
 
Bây giờ được như thế nầy, phải biết cám ơn ân sủng của trời ban cho.
Biết bao nhiêu tỉ người trên thế giới này mơ ước được có một buổi sáng
thảnh thơi và no ấm như ông mà không được nhỉ?
 
 
Nhìn xuyên qua cửa phòng ngủ, ông thấy bà vợ nằm ngủ giấc yên bình,
lòng ông dạt dào niềm thương. Bà đã cùng ông mấy mươi năm dắt dìu nhau
trong phong ba bão táp của giòng đời nghiệt ngã. Đã chia sẻ ngọt ngào
cũng như đắng cay của một thời khói lửa điên đảo. Giờ này, may mắn vẫn
còn có nhau trong cuộc đời, thương yêu thắm thiết, nhường nhịn nâng đỡ
chăm sóc ngày đêm.
 
 
Không như những cặp vợ chồng già khác, cứ lục đục gây gỗ nhau, tranh
thắng thua từng li từng tí, làm mất hạnh phúc gia đình. Ông thương bà
biết an phận thủ thường, không đứng núi ầy trông qua núi nọ. Ông thấy
bà hiền lành và có trái tim đẹp như thánh nữ. Ông muốn vào phòng, hôn
bà lên trán, nhưng ngại làm vợ mất giấc ngủ ngon buổi sáng.
 
 
Ông lại cám ơn trời đã đem bà buộc vào đời ông. Ông cười và nhớ câu
nói của một nhà văn nào đó: “Đời sống không thể thiếu đàn bà, nhưng
sống được với một người đàn bà không phải dễ.”
 
 
 
 
 
Ông Tư ra vườn. một mảnh đất nhỏ trồng vài cây hoa, hương thơm thoang
thoảng, có tiếng chim kêu đâu đó líu lo vọng lại. Mấy đoá hoa sặc sỡ
còn đọng sương đêm lóng lánh. Nắng mai ấm áp phả lên da thịt ông, tạo
thành một cảm giác dịu dàng, êm ái. Ông vươn vai, xoay người trong thế
thể dục chậm, xương sống được thư giãn kêu răng rắc, đã đời. Hít thở
và phất tay chừng mười lăm phút cho máu huyết lưu thông. Loại thể dục
nầy đã giúp ông bớt được những cảm mạo thông thường, ông tin vậy.
 
 
 
 
 
Ông Tư thay áo quần để đi ra đường. Cầm cái áo lành lặn bằng vải tốt
trên tay, ông thường nhớ đến thời đi tù, khâu bao cát làm áo, rách tả
tơi, không đủ che gió lạnh thấu xương của núi rừng.
 
 
Thế mà cũng có nhiều tù nhân khéo tay và nghịch ngợm, khâu bao cát
thành bộ đồ lớn, đủ ba mảnh, và làm luôn cả cái “cà vạt”, mang vào
trông cũng sang trọng như đi ăn đám cưới. Nhớ lại thời đó mà rùng
mình.
 
 
Còn sống sót, và đến được đất nước tự do này, cũng là một điều mầu
nhiệm lạ lùng.
 
 
Ông Tư đi ra đường, xe cộ vùn vụt qua lại liên miên. Lề đường rộng,
phẳng phiu, sạch sẽ. Bên kia là giao điểm của hai xa lộ, các nhánh cầu
cao đan uốn éo chồng chất lên nhau, vòng vèo trên không, như những nùi
rối. Ông Tư thầm cám ơn tiền nhân đã đổ sức lực, mồ hôi, tài nguyên
khai phá và xây dựng nên những tiện nghi nầy cho ông nhảy xổm vào
hưởng dụng, mà không ai có một lời ganh ghét, tị hiềm.
 
 
Ông, từ một trong những nước lạc hậu nhất của hành tinh nầy, bị chính
quyền cuả xứ ông bạc đãi, kỳ thị, kềm cặp và lấy hết các tự do cơ bản.
 
 
Đến đất nước này, ông được bình đẳng, có công ăn việc làm hợp với khả
năng, con cái ông được đến trường, học hành thành tài, có nghề nghiệp
vững chắc và sống với mức trung lưu. Ông cảm thấy còn nợ quê hương mới
nầy quá nhiều thứ, từ tinh thần đến vật chất, mà biết không bao giờ
trả lại được một phần nhỏ nào. Ông Tư vừa đi bộ vừa ca hát nho nhỏ.
 
 
Một người cảnh sát cao lớn dềnh dàng đi ngược đường chào ông, ông chào
lại bằng lời cám ơn đã giữ gìn an ninh cho dân chúng sinh sống. Người
cảnh sát cười và nói đó là bổn phận, vì lương bổng của ông ấy được trả
bằng thuế của dân chúng, trong đó có ông.
 
 
Ông Tư thấy trong lòng bình an, ông không làm điều gì phạm pháp, thì
không sợ ai cả. Ông đọc trong báo, thấy có những xứ, dù không làm gì
sai quấy cả, cũng bị cảnh sát giao thông chận lại đòi tiền, nếu không
cho tiền, thì bị quy kết đủ thứ tội mà mình không có.
 
 
Nắng chiếu hoe vàng cả dãy phố của một ngày thu, ông Tư bước đi mà
lòng rộn rã. Gặp ai cũng chào, cười vui vẻ. Nghe ông chào hỏi nồng
nhiệt, mọi người đều vui theo.
 
 
Thấy một ông cụ mặt mày đăm đăm rầu rĩ đi ngược đường, ông Tư lớn tiếng:
“Chào cụ? Có mạnh khỏe không? Hôm nay trời nắng đẹp quá!”
 
 
Ông cụ trả lời qua loa: “Tàm tạm, chưa chết! Chán cái mớ đời.”
 
 
Ông Tư nói to: “Việc chi mà chán đời cho mệt cụ ơi. Chưa chết là vui
lắm rồi. Cụ có biết là chúng ta đang sung sướng phước hạnh, tội chi
phí phạm thời gian để buồn nản?”
 
 
Ông cụ thở dài: “Ai cũng có nhiều việc âu lo! Đời đâu có giản dị! À,
nầy, mà hình như ông đau chân, bước đi không được bình thường? Thế thì
vui nỗi gì? ”
 
 
Ông Tư cười lớn: “Vâng, tôi đau chân, nhờ đau chân mà tôi thấy được
niềm vui hôm nay lớn hơn, vì còn đi được, bước được, chứ chưa phải nằm
nhà. Cụ ơi, nếu lo âu mà giải quyết được những khó khăn, thì nên lo.
Nhưng nếu lo âu, mà không giải quyết chi được, thì hãy vui lên, cho đỡ
phí phạm ngày tháng trời cho”
Ông cụ già lắc đầu bỏ đi.
 
 
Ông Tư xà vào ngồi trên ghế đá mát lạnh của công viên dưới tàng cây có
bóng nắng lung linh. Nhìn bọn trẻ con chơi đùa la hét lăn lộn trên bãi
cát, ông vui lây với cái hồn nhiên của chúng.
 
 
Bên kia đồi cỏ, có đôi nam nữ nằm dưới gốc cây, kê đầu lên tay nhau,
tóc đổ dài óng ánh, thỉnh thoảng vang tiếng cười rúc rích.
 
 
Đất nước nầy ấm no và thanh bình quá, sao có nhiều người còn kêu ca
đời sống khó khăn? Phải chăng những kẻ này chưa biết an phận, muốn
được nhiều hơn điều đang có, đang đủ.
 
 
Không thấy được phước hạnh là lỗi tại họ.
 
 
Ông dong tay bắt vài tấm lá rơi đang quay cuồng trong gió và lấy bút
ghi lên mặt lá mấy giòng thơ vừa thoáng qua trong trí để ca ngợi cuộc
đời.
 
 
Thấy bãi cỏ êm mát, ông nằm dài, những vòng tròn sáng màu vàng rải rắc
trên mgười ông. Gió hiu hiu mát từ hồ nước vờn qua làm mơn trớn thịt
da.
 
 
Ông Tư rút từ túi quần một cuốn sách nhỏ có nhan đề “14 ngàn điều làm
nên hạnh phúc”.
 
 
Tác giả tập sách nhỏ nầy, thấy đâu đâu cũng là hạnh phúc tràn đầy.
 
 
Vấn đề là cảm nhận được cái sung sướng, cái hạnh phúc đang có. Từ việc
đặt chân lên một tấm thảm mềm êm ái, đến việc cắn một trái ngọt chín
mọng trong miệng, đến mơ mộng được hát trên bục một hộp đêm, nghe một
lời nói dịu dàng yêu thương…
 
 
Hạnh phúc và sung sướng cảm nhận được từ những điều rất nhỏ nhặt, đơn
sơ, tầm thường nhất trong sinh hoạt hàng  ngày. Không cần phải là ôm
chặt người yêu trong vòng tay, cũng chẳng phải vật nhau lăn lộn trên
giường, cũng không cần đến việc cầm trong tay cái vé số trúng độc đắc,
hoặc làm chủ được một tòa lâu đài sang trọng… Ông nghĩ, chắc sẽ có
người cho tác giả tập sách nầy là kẻ “lạc quan tếu”. Nhưng thà lạc
quan tếu hơn là bi quan.
 
 
Đời nầy, có nhiều người đắm mình trong hạnh phúc, mà cứ tưởng đang
ngụp lặn trong bể khổ.
Hoặc đang được phước hạnh mà không biết và xem thường, chỉ khi mất đi,
hay đã trôi qua, mới biết, thì đã quá muộn màng.
 
 
Nắng đã xông hơi nồng nóng, ông Tư đón chuyến xe buýt ra về. Cái vé xe
cho người già rẻ rề, chỉ bằng một phần ba vé bình thường. Ông nói lời
cám ơn tài xế, và thấy mang ơn những người cùng đi xe công cộng nầy,
vì xem như họ đã gián tiếp gánh một phần tiền vé cho ông.
 
 
 
 
 
Về nhà, bà Tư đã dọn sẵn cơm trưa, mời ông rửa ráy cho sạch sẽ mà ra
ăn. Thấy ly nước chanh muối, ông cầm uống, chất nước ngọt ngào mằn mặn
chua chua, ngon lành đi qua cổ họng. Ông nhìn vợ với ánh mắt thương
yêu và nói lời cám ơn cho bà vui. Chưa ăn, mà thấy bát canh bông bí
nấu tôm đã biết ngon. Những món ăn thanh đạm này, với ông, còn ngon
hơn sơn hào hải vị.
 
 
Ăn xong, còn chút cơm thừa, bà Tư bỏ vào chén, cất vô tủ lạnh, không
dám đổ đi, vì sợ phí phạm của trời. Bà nhắc câu nói của ông: “Ngay giờ
khắc nầy, trên thế giới có hơn năm trăm triệu người đang đói rã, không
có một miếng gì đề ăn, và có hơn vài tỉ người ăn chưa no bụng, và
nhiều tỉ người khác quần quật ngày đêm, cũng chỉ mong có đủ no mà
thôi.” Đã từng đói, nên ông bà không dám phí phạm thức ăn.
 
 
Ông Tư mừng vì ăn còn thấy ngon miệng, không như một số người khác, ăn
gì cũng như nhai đất sét, không muốn nuốt, vì nhạt miệng, mất vị giác.
Một số người khác còn tệ hại hơn nữa, họ không còn ăn bằng miệng được,
mà ăn bằng bụng, nhờ ống dẫn thức ăn nối với dạ dày, như đổ xăng cho
xe hơi.
 
 
Ông Tư ngồi vào bàn mở máy vi tính lướt mau tin tức thế giới biến
động. Đôi khi thấy gía thị trường chứng khoán tụt dốc xuống thấp, làm
nhiều nhà bình luận lo ngại.
 
 
Nhưng ông Tư cười, ông chẳng thèm để ý, không cần quan ngại chi cả.
Chứng khoán lên hay xuống, cũng thế thôi. Ông có lo ngại hay quan tâm
cũng chẳng thay đổi được gì. Với số tiền hưu khiêm tốn, và cách ăn
tiêu trong khả năng tài chánh, ông bà Tư chưa bao giờ thấy thiếu thốn
cái gì. Có một ông bạn khoe rằng nay đã thành triệu phú. Bà Tư đùa và
hỏi, triệu phú thì khác người không là triệu phú cái gì? Ông bạn lúng
túng ấp úng không biết phải trả lời ra sao. Nhưng ông bà Tư chắc chắn
rằng, họ ít tiền, nhưng được sung sướng, đầy đủ  hơn nhiều người giàu
triệu phú khác.
 
 
 
 
 
Ông Tư rà mắt qua các tin tức và các biến cố mới nhất. Thật là tuyệt
diệu và thần kỳ. Chuyện vừa xảy trong giờ trước, đã được tường thuật
ngay. Dạo một vòng tin tức xong, ông quay qua mở vi-thư của bạn bè. Có
những người bạn xa cách hàng ngàn dặm, mấy chục năm nay chưa gặp lại
nhau, mà thư từ qua lại liên miên, tưởng như gần gũi trong gang tấc.
Tha hồ hàn huyên tâm sự. Tình cảm qua lại thân thiết chứa chan.
 
 
Nhờ máy vi-tính, khi viết, tha hồ bôi xoá tẩy sửa lung tung, mà không
cần phải xé tờ nầy, viết lại tờ kia, vô cùng tiện lợi. Thư viết xong,
chỉ cần một cái nhấp con chuột, bạn ông nhận được ngay tức thì. Không
cần phải nhờ bưu điện chuyển đi có khi cả tuần mới đến.
Hàng chục lá thư của bạn bè khắp nơi trên thế giới chuyển đến ông đủ
điều hay, lạ, nhiều bài thuốc hiệu nghiệm, trăm bản nhạc du dương,
ngàn hình ảnh tuyệt vời của các thắng cảnh thiên nhiên, các đoạn phim
ngắn đủ thể loại của nhiều vấn đề khác nhau. Ông cám ơn khoa học kỹ
thuật tiến bộ, đem thế giới mênh mông lại gần gũi trong không gian và
cả thời gian.
 
 
Mỗi khi nghe tin một người già bệnh hoạn qua đời, ông Tư mừng cho họ
thoát được thời gian đau yếu sống không chất lượng. Nhiều người nằm
liệt vài ba năm, không sống, không chết. Còn có những kẻ phải cưa tay
cưa chân. Ông vẫn thường mong sau này, nếu được chết, thì chết mau
chóng, yên lành, khỏi qua thời gian bệnh hoạn lâu ngày.
Có một bạn già mỉa mai, cho ông Tư là “kẻ tự sướng” ông chỉ cười và
nói : “Thà tự sướng hơn là tự khổ”
 
 
 
 
 
Ông Tư thường nghĩ rằng, ông đã và đang được quá nhiều phước hạnh của
trời ban, nhiều ân nghĩa của nhân loại, xã hội, nhiều tình thương của
gia đình, bạn bè, người quen và cả chưa quen.
Ông thấy sung sướng hạnh phúc.
 
 
Ông tội nghiệp cho những người suốt đời than van, nắng không ưa, mưa
không chịu, và tự bôi đen ngày tháng đẹp đẽ của họ, và dìm đời vào bất
mãn, khổ đau./.
 
 
Tràm Cà Mau

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.