Tiến sĩ Nguyễn Đình Đăng, Japan
Trí thức
Hồi còn là sinh viên năm thứ nhất (1976 – 1977) tại Đại học Tổng hợp Quốc gia Maxcơva [1], một lần ngay trong giảng đường vào giờ nghỉ, chúng tôi được yêu cầu khai lý lịch để nộp cho giáo vụ trường. Đến mục thành phần giai cấp của gia đình, tôi viết “trí thức” (интеллигенция), lại còn “trầm trọng” ghi chú “cha: thầy giáo, mẹ: bác sĩ” (отец – учителъ, мать – врач). Petya, cậu bạn Nga của tôi, thấy vậy bảo: “Ê, tiểu tư sản! Xoá đi mày! Ghi như tất cả chúng tao đây này: рабочий (lao động, công nhân).” Thấy tôi có vẻ băn khoăn, cậu ta giải thích: “Chúng tao gọi thầy giáo và bác sĩ là những người lao động trí óc (работники умственного труда).”
*
Phải nói thẳng một cách sòng phẳng như thế này. Trong lịch sử nhân loại chưa có một chế độ độc tài nào lại tôn trọng trí thức. Độc tài và trí thức không khác gì lửa và nước. Tần Thủy Hoàng từng ra lệnh đốt Kinh Thi và Kinh Thư, chôn sống hơn 460 Nho sĩ. Sa Hoàng Nikolai Đệ Nhị từng căm ghét trí thức đến nỗi muốn loại bỏ từ “trí thức” khỏi từ vựng của tiếng Nga: “Trí thức là một từ ghê tởm,” ông ta nói. Nhà độc tài kế tiếp ông, lãnh tụ cộng sản Lenin còn tiến một bước xa hơn khi đã không ngần ngại sử dụng một trong những từ thiếu sạch sẽ nhất để gán cho trí thức: Lenin gọi trí thức là cứt. Trong thư gửi Maxim Gorky ngày 15/9/1919, Lenin viết: “Các lực lượng trí tuệ của công nông đang trưởng thành vững mạnh trong cuộc đấu tranh lật đổ tư sản và bọn đồng lõa, lũ trí thức – đầy tớ của tư bản, những kẻ tưởng mình là bộ não của quốc gia. Trên thực tế, bọn chúng không phải là bộ não mà là cứt.” [2].
Khác với từ intellectuals trong tiếng Anh, thường được dùng chủ yếu để chỉ những người có nghề nghiệp chuyên môn trong các lĩnh vực lao động trí tuệ nhằm phân biệt họ với những người lao động chân tay, khái niệm trí thức (интеллигенция) trong tiếng Nga được dùng cho tầng lớp của những người không đơn thuần chỉ có học và lao động trí óc, mà còn phải có tư duy phê phán, phải gánh vác những lý tưởng cao cả. Các tính năng chính của trí thức Nga trước cách mạng tháng 10 mang đặc thù của những cứu tinh trong xã hội, bao gồm: 1) sự quan tâm tới số phận của đất nước (trách nhiệm dân sự), 2) thái độ và hành động hướng tới phê bình xã hội, tới cuộc đấu tranh với tất cả những gì cản trở sự phát triển quốc gia (vai trò của những người gánh vác lương tâm xã hội), và 3) khả năng đồng cảm với những ai “bị xúc phạm và bị xỉ nhục” (cảm giác đồng cảm về đạo đức).
Vốn có truyền thống tự chịu trách nhiệm về tương lai của đất nước như vậy, nên một số trí thức Nga đã có ảo tưởng ngây thơ rằng họ có thể hợp tác với chính thể độc tài, thuyết phục những người cầm đầu để họ cải tổ theo chiều hướng Tự do Dân chủ. Họ chưa bao giờ thành công. Sau cách mạng tháng 10 Nga, các văn hào như Maxim Gorky và Vladimir Korolenko đã đích thân tới gặp Lenin với hy vọng thuyết phục ông ngừng khủng bố, nhưng họ đã thất bại.
Những người cầm đầu trong bộ máy quyền lực của chính thể cộng sản đã không bao giờ tha thứ thái độ “phản động” hay “phản cách mạng” của giới trí thức và đã nhanh chóng đàn áp họ. Thi sĩ nổi tiếng Nikolai Gumilev là nạn nhân đầu tiên. Năm 1921 ông đã bị buộc tội âm mưu chống lại chế độ Xô Viết và đã bị xử bắn. Cuộc đàn áp trí thức của chính quyền Xô Viết đã đẩy hàng loạt trí thức Nga di tản ra nước ngoài sau cách mạng tháng 10. Những đại diện xuất sắc của giới trí thức Nga thời đó, kể cả các triết gia và các văn hào lớn như Nikolai Berdyaev [3] – chủ bút tờ Vekhi (Вехи: Những cột mốc), cũng bị chính quyền trục xuất ra khỏi đất nước vào cuối năm 1922. Sự đàn áp này còn tiếp tục cho tới khi Liên Xô tan rã vào năm 1991, với nhiều văn nghệ sĩ và trí thức bị tống giam, trục xuất, đày ải, trong đó có những cá nhân kiệt xuất như nhà vật lý Lev Landau (Nobel vật lý năm 1962, bị bắt giam 1 năm trong đợt thanh trừng 1936 – 1938), nhà thơ Iosif Brodsky (Nobel văn chương năm 1987, bị trục xuất năm 1972), nhà văn Alexandr Solzhenitsyn (Nobel văn chương năm 1970, bị bắt giam 11 năm tù 1945 – 1956, bị trục xuất năm 1974), nhà vật lý Andrei Sakharov (Nobel hoà bình năm 1975, bị bắt và bị quản thúc 6 năm 1980 – 1986), v.v.
Dưới chính thể cộng sản, Đảng cộng sản cai trị toàn xã hội, không cho phép bất cứ đảng phái đối lập nào khác tồn tại, chưa nói cạnh tranh quyền lực, và thẳng tay trừng trị mọi tư tưởng khác quan điểm do đảng áp đặt, chứ chưa nói tới hành động, mà những người cộng sản cho rằng có thể đe doạ địa vị thống trị của họ. Chỉ riêng chế độ Stalin – người kế thừa Lenin – đã hành quyết và đầy ải đến chết hơn 20 triệu người [4], gấp đôi số nạn nhân đã chết trong các lò thiêu người và trại tập trung của phát-xít Hitler. Chính thể cộng sản quả thật là chính thể độc tài tàn bạo nhất trong thế kỷ thứ 20.
*
Bài học đau xót của trí thức dưới chính thể cộng sản đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã được lặp lại tại Việt Nam. Vào năm 1956, khi một số văn nghệ sĩ, luật sư, triết gia, bác sĩ, nhà giáo tại Hà Nội như Hoàng Cầm, Trần Dần, Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Phan Khôi, Tử Phác, Phùng Quán, Nguyễn Mạnh Tường, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, v.v. lên tiếng đề nghị Đảng cộng sản (lúc đó lấy tên là Đảng Lao Động Việt Nam) tôn trọng tự do sáng tạo, hành xử theo luật pháp v.v., họ đã bị đàn áp thẳng tay trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Cải cách ruộng đất, Cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh và vụ Nhân Văn Giai Phẩm là những đòn trí mạng giáng vào giới trí thức Việt Nam, và kết quả là đã “đào tận gốc trốc tận rễ” tầng lớp này trên miền Bắc. Còn sau năm 1975, Việt Nam là đất nước đã sinh ra cuộc di tản khổng lồ bằng thuyền khủng khiếp nhất trong lịch sử hiện đại [5] với hơn 1.6 triệu người bỏ quê hương di tản ra ngoại quốc, trong đó có hàng ngàn trí thức miền Nam [6].
Trên thực tế, nếu hiểu giới trí thức như khái niệm интеллигенция, thì Việt Nam từ đó không còn giới trí thức nữa. Thay vào đó, cụm từ “trí thức xã hội chủ nghĩa (XHCN)” đã ra đời tại miền Bắc XHCN, và sau đó cụm từ này đã chết yểu. Nó cũng tương tự như việc thay thế chủ nghĩa hiện thực trong văn học nghệ thuật bằng “hiện thực XHCN” tại Liên Xô trước đây mà nhiều nước trong khối cộng sản đã bắt chước. “Hiện thực XHCN” đã hoàn toàn phá sản sau khi Liên Xô sụp đổ. Câu chuyện tiếu lâm dưới đây, mà tôi từng được nghe trong thời sinh viên tại Liên Xô, đã nêu rõ thực chất của thứ “hiện thực” này.
Thành Cát Tư Hãn sau khi chinh phạt thế giới, đã trở thành bá chủ một đế quốc mênh mông trải dài từ bờ biển Đông tới lưu vực sông Danube. Tuy nhiên, trong một lần chinh chiến, ông ta đã bị mất một mắt. Có lần vị hoàng đế nhà Nguyên này ban lệnh tìm hoạ sĩ giỏi để vẽ chân dung cho mình. Hoạ sĩ thứ nhất được tiến cử tới yết kiến Thành Cát Tư Hãn, và đã vẽ hoàng đế nhà Nguyên với đầy đủ cả hai mắt tinh. Sau khi bức tranh được hoàn thành và được đem trình hoàng đế xem, Thành Cát Tư Hãn khinh bỉ nói: “Sao lại có cái thứ lãng mạn chủ nghĩa đồi bại thế này?”, rồi ra lệnh chém đầu hoạ sĩ. Hoạ sĩ thứ hai được vời tới. Rút kinh nghiệm thảm khốc từ hoạ sĩ trước, hoạ sĩ này đã vẽ Thành Cát Tư Hãn giống y như thực, tức là với một mắt tinh và một mắt chột. Thành Cát Tư Hãn liếc nhìn bức tranh rồi phán: “Tự nhiên chủ nghĩa tục tằn!” Hoạ sĩ thứ hai cũng bị bay đầu. Hoạ sĩ thứ ba đã vẽ chân dung Thành Cát Tư Hãn en profil (chân dung nhìn nghiêng), chỉ thấy con mắt tinh, còn con mắt chột được che khuất trong nửa không nhìn thấy của khuôn mặt. Hoàng đế nhà Nguyên xem tranh và khen: “Đây mới thực sự là hiện thực xã hội chủ nghĩa!”, rồi truyền ban thưởng cho hoạ sĩ.
Trong tác phẩm “Trí thức và vai trò của nó trong quá trình văn hoá”, Vitaly Tepikin đã tổng hợp và đề xuất 10 dấu hiệu của giới trí thức hiện đại là [7]
1 – có lý tưởng đi trước thời đại, nhạy cảm với người xung quanh, lịch sự nhũn nhặn trong biểu hiện;
2 – tích cực lao động trí óc và liên tục tự học;
3 – ái quốc dựa trên niềm tin vào nhân dân và có tình yêu quê hương sâu sắc;
4 – sáng tạo không mệt mỏi và có lối sống giản dị đến khổ hạnh;
5 – độc lập, có khát vọng đạt tới tự do biểu hiện, và tìm thấy mình trong khát vọng đó;
6 - có quan hệ phê phán đối với chính quyền, lên án mọi biểu hiện của bất công, vô nhân đạo, phản nhân văn, phản dân chủ;
7- trung thành với niềm tin do lương tâm mình mách bảo, ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất, kể cả phải hy sinh quyền lợi bản thân;
8 – nhận thức thực tế một cách mơ hồ, dẫn đến dao động về chính trị và đôi khi có biểu hiện bảo thủ;
9 – Có niềm oán hận lớn trước những gì không thực hiện được trên thực tế hoặc trong tưởng tượng, kết quả là đôi khi trở nên hoàn toàn khép kín tự cô lập mình;
10 – Các nhà hoạt động chuyên môn trong các lĩnh vực khác nhau, và ngay cả trong cùng một lĩnh vực, thường hiểu lầm nhau, hậu quả là đôi khi nổi cơn ích kỷ hoặc bốc đồng.
Tepikin cho rằng một cá nhân có ít nhất một nửa số dấu hiệu trên đây có thể được gọi là “trí thức theo nghĩa đại khái của từ đó”. Chuyển sang ngôn ngữ Việt Nam đương đại, có thể tạm gọi những người thoả mãn 5/10 biểu hiện nêu trên là các “trí thức dự khuyết”.
Trong giới những người (thực sự) có học vấn của Việt Nam, đại đa số chắc hội đủ ba dấu hiệu cuối (8 – 10). Những người khoa bảng mà lúc đầu từng hoạt động chuyên môn nhưng sau bỏ để ra làm quan thì khó có thể giữ được các dấu hiệu 2, 4 – 10, nếu không nói rằng hai dấu hiệu còn lại (1 và 3) đối với những người này không phải lúc nào cũng đáng tin cậy.
*
Tương truyền, trong một lần thuyết giảng, triết gia cổ Hy Lạp Plato đã định nghĩa “con người là một động vật đi bằng hai chân và không có lông vũ.” Diogenes – một triết gia cổ Hy Lạp khác – nghe vậy bèn bắt một con gà, vặt sạch lông, thả vào giảng đường, rồi nói: “Các người hãy nhìn kìa, đó là Con Người theo định nghĩa của Plato!” Nghe nói Plato sau đó đã phải thêm “có móng rộng và bẹt” vào định nghĩa “Con Người” của mình.
Gẩn đây có một vài ý kiến của một số “Plato Việt Nam” muốn xác định lại các tiêu chí thế nào là trí thức. Ngay lập tức họ được các “Diogenes Việt Nam” lên tiếng sửa gáy. Đội quân các “Diogenes Việt Nam” rất hùng hậu, có tới cả ngàn. Thay vì sống trong thùng tô nô, họ sống trong các blog. Họ cũng không xách đèn đi tìm người lương thiện giữa ban ngày [8], bởi dường như đã biết trước câu trả lời. Họ lại càng không có cơ hội để làm như Diogenes khi gặp Alexander Đại Đế. Theo sử gia Plutarch, khi Alexander Đại Đế tới Corinth, những người đứng đầu thành phố và các triết gia đã lũ lượt kéo nhau tới yết kiến Alexander, chỉ riêng Diogenes vắng mặt. Alexander bèn đích thân đi tìm Diogenes, và thấy ông này đang nằm dài sưởi nắng bên cái thùng ông dùng làm chỗ ngủ. Khi Alexander Đại Đế hỏi: “Hỡi nhà hiền triết, ngươi có muốn ta làm gì giúp ngươi không?”, Diogenes đã trả lời: “Ngài hãy đứng tránh sang một bên để khỏi che lấp ánh mặt trời của tôi.” Các triết gia và đám tùy tùng của Alexander Đại Đế nghe vậy cười phá lên, trong khi chính Alexander Đại Đế nói: “Nếu ta không phải là Alexander thì ta đã là Diogenes.”
Tới đây tôi chợt nhớ tới ca từ trong một bài hát của nhóm hip hop Dead Brez:
Bạn muốn có một chiếc Lexus hay Công Lý?
Một ước mơ hay của cải?
Một chiếc BMW, một chuỗi hạt xoàn, hay Tự Do? [9]
Ca từ này đúng hơn bao giờ hết tại Việt Nam đương đại. Rõ ràng bạn không thể vừa được người ta cấp xe sang (hay tặng nhà to) lại vừa có Tự Do (hay Công Lý). Bạn chỉ có thể chọn một trong hai thứ đó. Lập luận rằng cưỡi xe BMW mới tiến được hoặc tiến nhanh hơn tới Công Lý (hay Tự Do) là ngụy biện, tự dối mình và lừa dối người khác. Đặc biệt, nếu bạn là một người lao động trí óc theo một chuyên môn nào đó, việc bạn chọn cái gì sẽ tự động xếp bạn vào hàng ngũ những “trí thức dự khuyết”, hay vào đám học giả xu thời đang ngày càng lạm phát trên đất nước này.
(Tokyo, 25/2/2012)
Chú thích:
[1] Tên đầy đủ Đại học Tổng hợp Quốc gia Maxcơva mang tên M.V. Lomonosov (Московский Государственный Университет имени М.В. Ломоносова), viết tắt là MGU (МГУ).
[2] Nguyên văn tiếng Nga: “Интеллектуальные силы рабочих и крестьян растут и крепнут в борьбе за свержение буржуазии и ее пособников, интеллигентиков, лакеев капитала, мнящих себя мозгом нации. На деле это не мозг, а говно”. Trích từ V.I. Lenin, Thư gửi A.M. Gorky ngày 15/9/1919, Toàn tập, Tái bản lần thứ 5, NXB Văn học Chính trị, 1978, tập 51, trang 48-49 (В.И. Ленин, Из письма А.М. Горькому от 15 сентября 1919 года, Полное собрание сочинений, издание пятое Изд-во политической литературы, 1978 г. т. 51, стр. 48-49) (Xem bản tiếng Anh tại đây)
[3] Nikolai Alexandrovich Berdyaev (Николaй Алексaндрович Бердяев) (1874 – 1948) – triết gia Nga; thời Sa Hoàng, do tham gia nhóm Marxist nên từng bị bắt năm 20 tuổi và bị đày biệt xứ; năm 29 tuổi do chỉ trích Nhà Thờ Chính thống Nga nên bị kết tội báng bổ và bị đày đi Siberia; dưới thời Xô Viết do không chịu chấp nhận chính thể của đảng Bolshevik áp đặt sự thống trị của nhà nước độc tài lên tự do cá nhân, nên đã bị chính quyền Xô Viết trục xuất cùng hơn 160 nhà văn và học giả danh tiếng khác sang Đức bằng tàu thủy vào tháng 9/1922 (từ một danh sách gồm 280 người bị bắt trong đó có 32 sinh viên).
[4] New World Encyclopedia, http://www.newworldencyclopedia.org/entry/Great_Purges;
Heroes & Killers of 20the Century: Joseph Stalin: http://www.moreorless.au.com/killers/stalin.html
[5] Theo báo cáo của Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn, 1/3 số thuyền nhân (boat people) Việt Nam đã chết trên biển vì bị giết, bão, bệnh tật, đói. Thống kê của Cao ủy này cho biết chỉ riêng năm 1981 có 15095 thuyền nhân Việt Nam đã vượt biên từ Việt Nam tới được Thái Lan trên 455 thuyền. Trong số đó có 352 thuyền (77%) bị bọn hải tặc tấn công. Số vụ tấn công là 1149 tức trung bình mỗi chiếc thuyền bị hải tặc tấn công hơn 3 lần. 571 người Việt Nam đã bị hải tặc giết. 599 phụ nữ Việt Nam đã bị hải tặc hãm hiếp. 243 người Việt Nam đã bị bắt cóc.
[6] Postwar Vietnam: Dynamics of a transforming society, Ed. Hy V. Luong, (Rowman & Littlefield Publishers Inc., 2003).
[7] Виталий Тепикин, Интеллигенция, ее роль в культурном процессе. Vitaly Tepikin là tiến sĩ lịch sử, chuyên gia về lý thuyết và lịch sử trí thức, giáo sư thuộc viện Tri thức khoa học tự nhiên Nga (Российская академия естествознания).
[8] Diogenes từng xách đèn đi ngoài phố giữa ban ngày. Khi được hỏi làm gì đấy, ông trả lời: “Tôi đi tìm một người lương thiện.” Tương truyền ông chỉ gặp toàn bọn bất lương và vô lại.
[9] Nguyên văn: You would rather have a Lexus or Justice? A dream or some substance? A Beamer, a necklace or Freedom?
.....................................................................................................................................................................................
Lý Toét, Vietnam
Vị trí của Trí Thức trong xã hội Việt Nam
Trí thức (có dấu sắc), nguyên nghĩa 知识产权 - Tri thức (không có dấu sắc) sản quyền nghĩa là người có tri thức và biết sử dụng tri thức đó.
Ở Liên xô, trí thức là những người có trình độ chuyên môn và đã trải qua trong lò tôi luyện Goulag, Tổng công trình sư Korolev là một điển hình; hoặc bị vắt chanh bỏ vỏ như Lev Landau.
Ở Trung Quốc, trí thức được Mao Trach Đông cụ thể hóa và định lượng rõ ràng.
Ở Việt Nam, trí thức là những người có bằng cấp bất kể thật hay giả và là một trong những tiêu chuẩn đứng vào hàng ngũ cán bộ nguồn để được đề bạt trong tương lai. Hoặc trí thức dùng để trang trí cho mục đích tuyên truyền, GS Tôn Thất Tùng là điển hình với công trình "mổ gan khô" biến mất cùng với sự tồn tại của sinh học của ông.
Trái lại, trong những xã hội Dân chủ, trí thức lại không được coi trọng vì mọi người được trả lương theo năng lực và có quyền phát huy rộng rãi năng lực của mình.
Chính vì vậy mà vai trò của trí thức chỉ có thể được bàn ở những chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa (đồng nghĩa với tươi đẹp) và không được ai thèm đếm xỉa đến ở những chế độ dân chủ (mà sách vở hay phê bình là Chủ Nghĩa Tư Bản thối nát).
Phân tích trên đây để chỉ ra rằng trí thức chỉ là công cụ cho nhà cầm quyền, họ sử dụng sự hiểu biết về chuyên môn đáp ứng sự cai trị lâu dài của nhà cầm quyền. Tuy nhiên, do là công cụ nên sức mạnh của trí thức "phát huy" tùy theo người sử dụng. Để so sánh ta lấy thí dụ con ngựa Xích Thố trong Truyện Tam Quốc.
Ngựa Xích Thố là chiến mã có sức mạnh mà ai cũng biết, những kỳ tích của nó chỉ thể hiện khi người cỡi nó là Quan Vũ, nhưng đó chỉ là bề ngoài. Giá trị của ngựa Xích Thố lại là ở chỗ giá trị trao đổi của nó:
Đổng Trác mất Xích Thố nhưng được đạo quân của Đinh Nguyên kèm khuyến mãi Lữ Bố
Tào Tháo mất Xích Thố nhưng đổi lại hạ được hai mãnh tướng Nhan Lương và Văn Sú của Viên Thiệu, chìa khóa để thắng Thiệu.
Trong cuộc đấu tranh giai cấp, nhà cầm quyền nắm trong tay mạng lưới tình báo với trang bị hiện đại để đối phó với đội ngũ "phản biện" không có thông tin tin cậy trong tay. Cho nên trí thức trong tay "giai cấp vô sản" chỉ như những con ngựa, khá thì dùng để trao đổi, kém hơn chỉ dùng để cưỡi, không hơn.
Trí thức Việt Nam tiêu biểu:
Vị trí của Trí thức trong xã hội Việt Nam: thứ nhất, Trí thức chỉ tồn tại trong hệ thống Xã Hội Chủ Nghĩa; thứ hai, họ là những người có chuyên môn, là công cụ và chưa bao giờ có vị trí cao trong tầng lớp lãnh đạo đất nước. Bài viết xin lần lượt các nhân vật Trí thức tiêu biểu:
Trần Huy Liệu (1901-1969)
GS Trần Huy Liệu là nhà cách mạng lão thành. Ông gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng (Nguyễn Thái Học) năm 1928 rồi ly khai VN QDĐ để được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1936.
Tại Quốc dân Đại hội tại Tân Trào tháng 8 năm 1945 cùng với đồng chí Trường Chinh, ông ứng cử vào chức Chủ tịch Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam. Kết quả cuối cùng ông làm chức phó Chủ tịch (tuy chức Phó, sau lãnh tụ Hồ Chí Minh nhưng có chân trong Thường trực Ủy ban).
Trần Huy Liệu thời trẻ rất mê con dâu Thượng thư Phạm Quỳnh (vợ Phạm Giao - anh cả nhạc sĩ Phạm Tuyên). Hạ tuần tháng 8 năm 1945 Trần Huy Liệu cùng Nguyễn Lương Bằng thay mặt chính phủ lâm thời vào Huế nhận ấn kiếm thoái vị của vua Bảo Đại. Đến Thượng tuần tháng 9 năm 1945 cả hai cha con Phạm Quỳnh, Phạm Giao bị giết, rồi Trần Huy Liệu lấy bà vợ Phạm Giao làm vợ bé.
Do đó mà mặc dù tham gia cách mạng từ rất sớm, đã nắm chức vụ rất cao từ Cách mạng Tháng Tám nhưng Trần Huy Liệu không bao giờ vào được vào Trung ương Đảng kể cả chức vụ Ủy viên Dự khuyết. Từ một Nhà cách mạng, ông trở thành một Trí thức XHCN - Nhà sử học. Lịch sử mà ông viết bao gồm những nội dung chính sau đây:
1. Kết tội cụ Phan Thanh Giản bán nước, qua đó kết án và xóa sạch công lao xây dựng đất nước của các Triều vua Nguyễn và chúa Nguyễn.
2. Dựng nên hình tượng lịch sử Lê Văn Tám nhưng cuối cùng không chịu giữ kín mà thừa nhận Lê Văn Tám là nhân vật hưu cấu do chính tay Trần Huy Liệu nặn ra. Làm điều này ông đã góp phần làm nặng thêm nghi ngờ rằng lịch sử của đảng ta được xây dựng từ sự giả dối.
3. Thiết lập quan điểm lịch sử cho rằng: Lịch sử Việt Nam thực sự bắt đầu từ khi ra đời của Đảng CSVN và lãnh tụ Hồ Chí Minh.
4. Xây dựng giai thoại trong Viện Sử học, ca ngợi tài ngoại giao của Bác Hồ bằng câu nói trứ danh: Bác có đường lưỡi tuyệt vời.
(Trích: Chuyện Thường Ngày ở Huyện)
..........................................................................................................................................................
Huệ Đăng, Việt Nam
Để người Đảng dạy thành Trí thức
(BBC: 2 Feb. 2012, Bài viết phản ánh quan điểm và văn phong của tác giả, hiện sống tại Sài Gòn).
Thế giới có danh xưng gì, Việt nam cũng có đủ danh xưng ấy, nhưng tất nhiên với bản chất khác hẳn và danh xưng Trí thức cũng không phải là ngoại lệ.
Trí thức không phải một danh xưng bình thường, mà là một danh hiệu quí giá của xã hội trao tặng người có những phẩm chất đặc biệt.
Ngay cả Noam Chomsky - triết gia và nhà ngôn ngữ học cánh tả nổi tiếng nhất của Mỹ - cũng thừa nhận: "Là Trí thức đó là một sự bổ nhiệm cho mỗi người biết sử dụng lý trí của riêng mình để thúc đẩy những công việc quan trọng cho sự phát triển của loài người."
Lòng dũng cảm
Danh xưng Trí thức được nêu công khai lần đầu tiên trong bài báo của Georges Clemenceau với tựa đề ‘Sự phản đối của Trí thức’ trên Le Journal, 01/02/1898 ở Paris, nói về khoảng 2.000 người gồm các nhà khoa học, nhà văn, nghệ sĩ, công chức cao cấp của Pháp đã dũng cảm ký tên vào tuyên bố phản đối sự vi phạm pháp luật trong vụ Dreyfus.
Như vậy, thuộc tính đầu tiên của Trí thức là lòng dũng cảm: dũng cảm bảo vệ ý kiến của riêng mình và dũng cảm đưa ra thảo luận công khai vì việc chung, vì sự phát triển xã hội.
Để có thể có được quan điểm, nhận định riêng- có tính phê phán- của mình trả lời cho những vấn đề chung của xã hội mà những người khác hoặc là không nhận thức được, không biết câu trả lời, hoặc không dám đưa ra thảo luận công khai, người Trí thức phải có khả năng phân tích, phân biệt Tốt - Xấu, Đúng- Sai, Lợi-Hại, Nên-Không nên, một cách lý trí, độc lập và khách quan không theo tình cảm của mình.
Theo Sartre, người Trí thức phân tích, đặt câu hỏi sâu sắc hơn, phê phán và tranh luận công khai về những hoạt động quan trọng trong xã hội, để tác động đến sự phát triển của nó. Ở đây, người Trí thức không bị phụ thuộc vào bất kỳ quan điểm chính trị hay đạo đức nào. Chính điều này thường dẫn đến xung đột với nhà cầm quyền.
Dù muốn hay không, tầng lớp Trí thức cũng vừa là người xây dựng, vừa là người phê phán ý thức hệ và hệ giá trị cơ bản của xã hội. Chính ở những xã hội có nhiều sự cách biệt, phân biệt và những trở ngại lớn lao cho sự phát triển, những xã hội đang ở giai đoạn quá độ, đang đứng trước ngả ba đường, những xã hội mà khoảng cách giữa ý thức hệ tư tưởng với thực tiễn càng lớn, người ta càng cần đến Trí thức.
Nhưng, Trí thức khác với những người "được đào tạo“, những người thông minh. Người "được đào tạo“ có thể hoàn toàn sống thanh thản với lương tâm khi hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, làm ra những sản phẩm tốt (thậm chí là có hàm lượng tri thức cao) cho xã hội mà không cần phải độc lập.
Người thông minh luôn có những quyết định đúng đắn mà nhiều khi sự phụ thuộc là cần thiết. Họ, cả hai, đều không cần phải – bằng lý trí và lập luận của riêng mình- đưa những vấn đề của xã hội ra thảo luận công khai hoặc tham gia vào chúng.
Tư duy độc lập
Trí thức thì ngược lại. Anh ta phải là con người có khả năng tư duy độc lập và độc lập với xã hội. Phẩm hạnh cần thiết hàng đầu của người Trí thức là lòng dũng cảm, kể cả dũng cảm tư duy độc lập.
Người Trí thức- trong ý thức trách nhiệm với con người, với xã hội- phải có dũng khí đưa vấn đề xã hội dưới góc nhìn của mình ra công luận và thúc đẩy thảo luận công khai về nó. Rất nhiều con người bình thường có những giải pháp hay, lý luận đúng, nhưng không bao giờ nghĩ đến việc thực hiện chúng.
Lòng dũng cảm Trí thức được nhà văn trào phúng Stanislaw Jerzy Lec của Balan thời cộng sản nói một cách hình tượng như sau:
“Để đến được nơi sinh ra dòng sông ta phải bơi ngược dòng và đừng bao giờ trông chờ nó sẽ đổi hướng.”
Lòng dũng cảm, sự đồng cảm, năng lực tư duy độc lập-tự do và khả năng dự báo là những thuộc tính cần thiết của một Trí thức. Nhưng chưa đủ để làm nên một Trí thức. Trí thức phải độc lập với xã hội trong một chừng mực tối đa có thể được, và đặc biệt phải độc lập với chính sự quan tâm về vị trí của mình trong xã hội.
Một Trí thức đưa vấn đề ra thảo luận công khai không phải vì quyền lợi của mình, không phải vì sự công nhận của xã hội. Trí thức luôn độc lập và từ chối thích nghi.
Theo Naomi Klein, nhà văn nữ, nhà báo cánh tả, nhà chống Toàn cầu hóa thì:
“Một Trí thức không tự bán mình và không để cho bất kỳ ai, bất cứ cái gì ngoài chính mình nói anh ta sẽ mặc gì, mua gì hay ăn cái gì.”
Phản biện- kể cả phản biện xã hội- không phải là một chức năng hay đặc trưng của riêng Trí thức, mà là yếu tố cần thiết trong quá trình tư duy của mỗi người, mỗi cá nhân trong xã hội để có thể dẫn đến một quyết định, một kết quả thích hợp.
Như vậy, Trí thức là danh hiệu chỉ người với năng lực tư duy độc lập, có khả năng bằng lý lẽ của riêng mình đưa những vấn đề có ý nghĩa với xã hội ra công luận, thúc đẩy thảo luận công khai về chúng mà không sợ bất cứ cản trở nào từ ai, từ cái gì.
Vai trò quan trọng của Trí thức đối với sự phát triển xã hội là không phải bàn cãi và được tất cả các chế độ, từ quân chủ, toàn trị, đến dân chủ, công nhận. Tuy cách hiểu và mục đích rất khác nhau.
Trong một tài liệu viết trước Cách mạng Tháng Mười 1917, với ghi chú đặc biệt là ‘Gửi Đảng’, Vladimir Lenin đã cảnh báo về các yếu điểm của tầng lớp Trí thức như sau:
"So với giai cấp vô sản, tầng lớp trí thức luôn có tính cá nhân hơn do các điều kiện sống và làm việc cơ bản của họ, những điều kiện không cho phép họ trực tiếp xây dựng được sức mạnh chung và vì vậy cũng không trực tiếp giáo dục được thông qua sự lao động có tổ chức chung. Do đó, các nhân tố trí thức rất khó khăn để thích nghi với những kỷ luật trong đời sống của đảng …"
Sau cách mạng, Lenin khẳng định lại sự cần thiết phải đưa tầng lớp Trí thức cũ vào lao động và nhắc lại các thiếu sót điển hình của Trí thức:
"Sự cẩu thả, thờ ơ, vô trật tự, không chính xác, hấp tấp một cách đáng ghét, ngây thơ; thiên hướng thảo luận thay cho hành động, nói thay cho lao động; thiên hướng khởi đầu tất cả trên toàn thế giới và không bao giờ dẫn đến kết thúc là các thuộc tính của những người „được đào tạo“, cái thuộc tính không bao giờ hình thành từ bản chất tồi tệ và ít hơn là từ ác ý, mà là từ toàn bộ lối sống, quan hệ lao động, từ sự mệt mỏi quá độ, từ sự tách biệt bất thường giữa lao động trí óc và lao động chân tay của họ.
Không có lời khuyên, không có hướng dẫn của những người được đào tạo, của trí thức, của chuyên gia, ta không thể làm được việc. Mỗi một công nhân, nông dân hiểu điều đó rất tốt, và những trí thức ở giữa chúng ta không thể phàn nàn về sự thiếu chú ý và sự tôn trọng theo tình đồng đội của công nhân, nông dân.
Các trí thức rất thường đưa ra những lời khuyên và hướng dẫn tuyệt vời. Nhưng chính là ở đây cho thấy họ bất lực, vụng về một cách nực cười, phi lý, đáng xấu hổ làm sao để thực hiện những lời khuyên và hướng dẫn đó và tạo được một sự kiểm soát trong thực tế để biến lời nói thành hiện thực“.
Phải cải tạo
Trong bài viết "Chủ nghĩa cực đoan tả khuynh, căn bệnh trẻ con trong Chủ nghĩa Cộng sản“ vào năm 1920, Lenin xác định nhiệm vụ mới cho Phong trào Cộng sản và chính quyền Xô viết là một mặt lợi dụng Trí thức, mặt khác phải cải tạo họ:
"Dưới chính quyền Xô viết sẽ còn nhiều Trí thức được "ấn vào“ đảng vô sản của chúng ta, của các bạn. Họ được "ấn vào“ chính quyền Xô viết, vào Tòa án và vào cơ quan hành chính, vì không thể xây dựng Chủ nghĩa cộng sản một cách khác, bằng cái gì khác hơn cái mà Chủ nghĩa Tư bản đã tạo ra: Chất liệu Con người. Người ta không thể tiếp tục săn đuổi sự thông minh dân sự và hủy diệt, mà phải chế ngự nó, thay đổi kiểu cách của nó, biến đổi nó và cải tạo nó…"
Những lời dạy của lãnh tụ Lenin chắc chắn phải là kim chỉ nam cho chế độ chuyên chính vô sản của đảng Cộng sản Việt Nan trong việc cải tạo tầng lớp Trí thức còn lại của chế độ trước và đào tạo tầng lớp trí thức mới cho đảng. Có thể khẳng định rằng đảng đã rất thành công.
Cũng giống như Lenin, người ta đã cố tình đánh đồng 'Người được đào tạo', chuyên gia với Trí thức và trao cho tất cả danh xưng trí thức.
Những Trí thức cũ còn lại đã rất hiếm, lại còn được cải tạo, ràng buộc trong những môi trường sống và làm việc khiến họ chỉ còn là những chuyên gia, những "người được đào tạo lại“. Số đó, nay tuổi đã cao hầu như không còn tồn tại.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã đào tạo cho mình một tầng lớp rất đông đảo 'Người được đào tạo' được mang danh trí thức. Sau chiến thắng 1975 vang dội, đứng trên đỉnh cao trí tuệ loài người, đảng trao cho họ danh hiệu cao quí 'Trí thức Xã hội Chủ nghĩa'.
Tầng lớp trí thức Xã hội Chủ nghĩa (XHCN) đã đóng góp tích cực và giữ vai trò quan trọng trong mọi thành công, thất bại của đảng CSVN, trong tất cả tình trạng đáng khen, đáng hổ thẹn hiện nay của Việt Nam.
Nhưng ta chưa thấy một ai trong số họ- ngay cả những nhà phản biện trung thành nổi tiếng và đáng kính nhất, ít nhất là trên phương tiện thông tin đại chúng- có dũng khí thừa nhận vai trò của mình, sai lầm của mình hay của tầng lớp mình trong đó. Họ chưa có tinh thần tự phản biện chính mình, chưa có khả năng phân biệt, nhận định một cách khách quan, độc lập của một Trí thức.
Họ cũng đặc biệt quan tâm đến sự công nhận của xã hội. Ở Việt nam, bạn sẽ xúc phạm ghê gớm đến một cử nhân, chứ đừng nói là đến thạc sĩ, tiến sĩ, khi nói anh ta không phải là một Trí thức.
Là „người được đào tạo“ để phục vụ một chủ thể xác định, cho những mục tiêu cụ thể, trí thức XNCN bối rối, hoang mang nếu phải độc lập, bị tự do, không còn được đảng lãnh đạo nữa.
Đó không thể là tư cách của một Trí thức. Phát ngôn của ông Chu Hảo: “chưa nhất thiết giải thể sự lãnh đạo của Đảng với tầng lớp trí thức ở trong nước”, hay của TS Khuất Thu Hồng: “Nếu đặt trí thức ngoài sự lãnh đạo của đảng đó thì trí thức càng không thể phát huy vai trò của mình. “, chưa phải là những thông điệp tệ nhất. Vì ít nhất chúng còn xác nhận một sự thật rằng, ở Việt nam quả thật chưa có tầng lớp Trí thức.
Tầng lớp trí thức XHCN tất nhiên cũng mang đậm dấu ấn được đào tạo. Họ thà mang tiếng hèn nhát, chứ nhất định không chịu mang tiếng dốt. Điều này, cùng với những nguyên nhân khác, có thể giải thích vì sao đa số nhà phản biện, đối lập trung thành chỉ phản biện sau khi về hưu.
Họ biết hết đấy, nhưng trong guồng máy thì xin lỗi, sợ lắm.
Không có tự do ngôn luận, làm sao trí thức XHCN trở thành Trí thức được?
Đúng thôi. Nhưng chính là ở đây, khi không được tự do, người ta mới cần thấy lòng dũng cảm Trí thức. Điều mà chúng ta cũng bắt đầu thấy.
Phản biện trung thành, đối lập trung thành vẫn rất đáng quí - dù chỉ đủ giải phẫu thẩm mỹ cho chế độ dễ thương hơn - vì đó chính là sự khác biệt. Không phải chính sự khác biệt là bước tiến đầu tiên đến đích tư duy độc lập hay sao?
Tôi cũng có dịp gặp nhiều bạn trẻ Việt Nam và tin rằng có một tầng lớp Trí thức Việt Nam đang bắt đầu hình thành, ngày một mạnh mẽ.
.......................................................................................................................
Source NNS
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.