của Lê Bá Thông
Chương Hai
Đoàn công voa gồm các chiến hạm lớn nhỏ của Hải quân Việt Nam nối đuôi nhau trong đội hình hàng dọc, theo lộ trình sông Sài Gòn, nhả khói đen lên bầu trời đầy sao. Vầng trăng nửa vành treo lơ lửng trên đỉnh đầu, chứng kiến sự ra đi của Hạm đội và Quân chủng Hải quân khi chưa tham dự trận chiến nào với Lực lượng Cộng sản. Từng cơn gió lành lạnh thổi vào từ hướng đông, phía biển Thái Bình Dương, nơi mà theo tin điện cho các Hạm trưởng và cấp chỉ huy Hạm đội Hải lực di tản cho biết, hàng trăm chiến hạm thuộc Đệ Thất Hạm đội, đang ở tại các vị trí neo hoặc hải hành dọc theo ven biển, ngoài hải phận 12 hải lý của Việt Nam. Họ chờ đón dân Việt Nam lìa bỏ quê hương trong cuộc di tản tập thể lớn nhất thế giới ở thế kỷ thứ 20.
Vào khoảng gần 10 giờ đêm ngày 29 tháng 4, chiến hạm dẫn đầu đi ngang qua Căn cứ Yểm trợ Tiếp vận Nhà Bè. Trên bờ phía trong Căn cứ, cảnh sinh hoạt rộn rịp, nhân viên đang chuẩn bị tăng cường phòng thủ như sẵn sàng chiến đấu chống lại những đợt tấn công sắp xảy ra của Cộng quân. Diễm Tú nhìn thấy chung quanh đoàn chiến hạm di tản, dọc theo bờ từ kho xăng Nhà Bè, từng chiếc giang đỉnh nằm dọc theo bờ. Trên boong tàu, tất cả nhân viên mặc phao nổi, áo giáp, hườm sẳn mấy khẩu súng lớn như đang trong tình trạng ứng chiến. Một chiếc chiến đỉnh nhỏ tiến ra từ phía Bộ chỉ huy Đặc khu Rừng Sát, cặp vào hông chiến hạm đang chạy phía trước. Rồi từng đám người có vẻ là gia đình của vị chỉ huy trưởng Đặc khu và ông này, leo cầu thang dây thòng ngang hông, theo mạn tàu lên boong thượng. Đoàn công voa lại khởi hành, chạy xình xịch trong màn đêm đang bao kín con sông dài đầy tiếng côn trùng ếch nhái.
Hạm đội di tản tiếp tục cuộc giang hành theo lộ trình sông Lòng Tào. Các thủy thủ đoàn trong nhiệm sở tác chiến, đề phòng đặc công Cộng sản núp tại các vị trí trên bờ, dùng B40 hoặc loại đại bác 87 ly không giật, vừa được Nga Sô viện trợ và được quân đội chính quy Cộng sản Bắc Việt xữ dụng tại chiến trường Việt Nam trong thời gian gần đây, để tiêu diệt chiến hạm di tản.
Trong suốt cuộc hải trình, nhiều tàu nhỏ chạy theo chung quanh đoàn chiến hạm Hải quân để xin được lên tàu. Cấp chỉ huy của đoàn công voa quyết định giới hạn số người xin quá giang và giúp đở, không cho phép vớt. Vì thế chỉ một số người may mắn bám víu theo mạn tàu và lái tàu lên được trên boong, phần nhiều đã bị bỏ lại. Tiếng van xin, cầu khẩn của dân Việt Nam cô thế, yếu đuối nghe thật não lòng. Các tàu nhỏ vẫn tiếp tục chạy theo đoàn công voa, đang khuất mờ dần trong bóng tối trên dòng sông uốn khúc.
Diễm Tú co mình trong chiếc áo len mỏng mà mẹ đã nhét vào va li sáng sớm hôm qua, nàng cố gắng dỗ mình vào giấc ngủ để không phải nghe, không phải thấy những cảnh tượng đau lòng của người xin di tản bị từ chối. Cá nhân nàng cũng không biết sẽ như thế nào, định mệnh dẫn dắt và đưa nàng về đâu, có được gặp lại Phan hay không. Những vấn vương, thắc mắc trong tâm tư làm nàng không thể ngủ được, Diễm Tú dựa người vào khẩu hải pháo, mắt ngước nhìn lên bầu trời sâu thẩm muôn trùng, mập mờ trên làn khói mỏng bay ra từ ống khói của chiến hạm. Mặt trăng nửa vành thỉnh thoảng bị đám mây bềnh bồng che khuất trong chốc lát rồi lại hiện ra trên đỉnh kỳ đài. Lá cờ vàng ba sọc đỏ, được giữ nguyên không hạ xuống, đang phần phật, phất phới bay theo cơn gió thổi mạnh ngược chiều với hướng tàu chạy.
Mùi dầu cặn thoang thoảng trong gió làm Diễm Tú cảm thấy khó chịu như những lần nàng xuống thăm chiến hạm của Phan đậu tại cầu tàu, cũng mùi đặc biệt của Hải quân đó nhiều khi khiến cho nàng buồn nôn. Phan thường chọc ghẹo nàng và nửa đùa nửa thật nói là lính biển ghiền mùi biển mặn hòa lẫn hương thơm của chiến hạm lắm, họ mê như mê mùi thơm trinh nguyên của người tình. Anh chàng lính thủy thường ngâm nga bài “Hoa biển” và bảo rằng Phan thích bài hát này vì đã nói lên được tâm tình của những người yêu màu áo trắng thủy thủ.
Thân thể Diễm Tú ê ẩm, tinh thần mệt mõi, cánh tay mặt thỉnh thoảng làm đau nhức khó chịu, đôi mắt nặng trĩu. Rồi nàng thiếp trong giấc mơ chập chờn về người yêu lính biển, trí óc lửng lơ với tiếng ì ầm đều đặn của máy và thân tàu rung nhè nhẹ như ru nàng ngủ.
Bình minh vừa ló dạng trên vịnh Vũng Tàu, các chiến hạm di tản chạy suốt đêm trên sông Lòng Tàu và may mắn không bị địch phục kích tấn công. Đoàn công voa tạm ngừng ngoài khơi để chờ chỉ thị đi gặp chiến hạm khác của Bộ Tư lệnh Hạm đội, tập trung tại Vũng Tàu ngày hôm qua. Sau khi liên lạc, cấp chỉ huy được báo cáo là những chiến hạm kia đã khởi hành trực chỉ đảo Côn Sơn từ chiều qua, khi thành phố Vũng Tàu hỗn loạn. Quân nhân thuộc mọi binh chủng dùng súng bắn phá tùm lum làm dân chúng hoảng sợ nên họ đã dùng tàu thuyền, ghe cá... đổ ra các chiến hạm Hải quân neo trong vịnh. Vì tình trạng khẩn cấp, những chiến hạm này phải gọi nhiệm sở vận chuyển và chạy ra khơi, trước khi có thể bị tràn ngập bởi làn sóng ghe thuyền đầy ấp dân di tản, đang xông xáo tranh nhau tăng tốc lực đuổi theo chiến hạm.
Thậm chí có những quân nhân trong quân phục rằn ri nổ súng bắn về phía tàu Hải quân khi các chiến hạm này từ chối ngừng lại để cho họ lên tàu. Tình trạng trở nên bi thảm khi có những chiếc tàu bị lật chìm hoặc bốc cháy bềnh bồng trên sóng nước êm ả. Hậu quả thương tâm của cuộc chiến mà người dân vô tội cô thế miền nam Việt Nam phải gánh chịu vào giai đoạn kết thúc, do những người lãnh đạo bất tài, cấp chỉ huy hèn nhát gây ra. Có những gia đình vừa mới di tản vào từ miền Trung, mất một nửa thân nhân bị chết đuối khi lội ra các tàu Hải quân neo trước bãi biển Sơn Chà, Đà Nẳng hay bị rớt xuống biển chết chìm khi leo thang dây lên chiến hạm... nay lại phải một lần nữa bị bỏ rơi, không người giúp đỡ để đi tìm ánh sáng Tự do.
Mặt trời lên cao dần từ phía chân trời sau những đám mây màu hồng nhạt vắt ngang bầu trời trong xanh, ánh sáng tạo thành một suối bạc lóng lánh trên mặt biển êm không gợn sóng. Nhờ thời tiết tốt, các xà lan được những tàu dòng kéo, thuyền bè nhỏ ... chở đầy dân tỵ nạn có thể chạy trên biển mà không gặp nhiều trở ngại và dân chúng cũng không bị say sóng gì cả. Đây là một may mắn mà Thượng đế đã ban phước cho đám con dân ngài, đang chen chúc trên sàn xà lan, trong khoan thuyền chật hẹp, lo âu cho cuộc đời bấp bênh, không tương lai trước mặt họ. Với thời tiết đẹp, các thuyền bè có thể dễ dàng cặp vào chiến hạm, tàu lớn... để chuyển người qua mà không bị nhồi sóng và nguy hiểm, khi tàu và thuyền va chạm vào nhau nếu biển động mạnh.
Diễm Tú đã thức dậy từ lâu khi chiến hạm đổ bộ này vừa đến Vũng Tàu. Nàng lấy ổ bánh mì thịt của anh Y tá bệnh viện Hải quân cho tối hôm trước, nhai ngấu nghiến rồi lấy chai nước đem theo, uống một ngụm dài cho đã khát. Chung quanh nàng, mọi người còn dật dờ trong giấc ngủ, kẻ vừa tỉnh dậy, dụi mắt rồi lấy tay che lại vì bị chói nắng bình minh đang rọi sáng từ mặt trời ở phương đông. Vài con chim hải âu màu trắng xám bay lượn trên chiến hạm như để kiếm mồi làm cho Diễm Tú đoán rằng tàu cũng chưa xa bờ nhiều lắm. Xa xa trên mặt nước xanh êm ả của buổi sáng đầu tháng 5, bềnh bồng vài chiếc thuyền cá do dân tỵ nạn bỏ lại sau khi chuyển qua các xà lan hay tàu lớn hơn. Vài chiếc tàu loại chở hàng của Quân vận không bóng người, đang nhồi trên sóng, lang thang trôi theo thủy triều đưa về nơi vô tận. Những mảnh ván gỗ vụn, va li hành lý, áo quần... từ các tàu bị đắm, lềnh bềnh, nhấp nhô với đợt sóng dài, lững lờ cuộn theo dòng nước.
Đoàn công voa đổi hướng, nối đuôi nhau, khoảng cách giữa hai tàu không xa lắm, vào khoảng 300 thước, trong đội hình hàng dọc và tiếp tục chuyến hải trình về hướng nam tây nam, phía đảo Côn sơn, địa điểm tập trung mà Hạm đội đã dự tính trước trong kế hoạch di tản. Từ phía sông Soài Rạp, sông Tiền giang, những đoàn chiến đỉnh di tản từ các đơn vị thuộc Vùng 4 Sông ngòi, Hải quân và Bộ binh. Các chiến hạm lần lượt đón các Sĩ quan và gia đình từ các chiến đỉnh nhỏ này. Sau đó một vài thủy thủ lái chiến đỉnh của họ trở vào bờ chứ không theo các người khác vì gia đình họ đang còn kẹt tại đây. Một vài chiến đỉnh bị bỏ lại, trôi dật dờ như nuối tiếc người ra đi.
Hàng ngàn người quá giang trên chiến hạm Hải quân ra biển, ẩm thực tự túc nhưng vấn đề vệ sinh thật là nan giải. Tuy nhiên với tài tháo vát và kinh nghiệm của thủy thủ đoàn, trước đây đã áp dụng cho các Tiểu đoàn thuộc các binh chủng bạn quá giang, chuyển quân, di chuyển hành quân, cũng giúp cho việc giải quyết vấn đề trên không khó khăn mấy. Nước ngọt cũng được phân phối đầy đủ, tuy nhiên phải được tiếp tế nếu cuộc hành trình di tản còn kéo dài. Do đó Bộ chỉ huy đoàn công voa phải liên lạc với Đệ Thất Hạm đội xin tiếp tế dầu và nước ngọt khi ra đến Côn Sơn. Sau đó mọi người rất phấn khởi và tăng thêm hy vọng khi được thông báo trên hệ thống âm thanh là Hạm đội di tản đã liên lạc được với Đệ Thất Hạm đội. Giới chức có thẩm quyền của Hải quân Hoa Kỳ chấp thuận gửi tàu dầu đến Côn Sơn để tiếp tế cho đoàn công voa. Họ cũng sẽ cho tàu chiến đến vị trí tập trung của Hạm đội Việt Nam để hộ tống đoàn tàu qua Subic Bay, Phi Luật Tân.
Diễm Tú rất vui mừng khi biết được tin này vì nàng hy vọng sẽ gặp lại gia đình mình tại Subic Bay như dự tính của Đại tá Quả và người bạn Cố vấn của ông ta. Nàng không biết hôm đó, bố mẹ và hai em Toàn, Thắng có buồn giận vì quyết định trở về của nàng hay không. Và rồi họ có gặp trở ngại gì về việc di tản không? Những thắc mắc và suy tư xâm chiếm tâm hồn người thiếu nữ đang ngồi thẫn thờ, mệt mõi giữa rừng người tỵ nạn trên sàn chiếc tàu sắt, lắc lư về hướng một hòn đảo cách xa đất liền, nằm cô đơn giữa biển Thái Bình Dương.
Sau một đêm không ngủ, tờ mờ sáng ngày 2 tháng 5 năm 1975, đoàn người tỵ nạn, quá giang trên chiến hạm Hải quân Việt Nam Cọng Hòa, thấy từ xa, nhô cao trên biển cả xanh lơ, giữa vài khóm mây trắng mỏng, là đỉnh núi của đảo Côn Sơn nằm chếch về phía hữu hạm, trước đội hình đoàn công voa. Thế là chiến hạm đã đến điểm hẹn với các tàu khác thuộc Hải lực theo đúng kế hoạch di tản của các cấp chỉ huy Hải quân Việt Nam và Hải quân Hoa Kỳ, với mục đích không để cho chiến hạm thuộc Bộ Tư lệnh Hạm đội lọt vào tay Cộng sản khi tiến chiếm miền nam Việt Nam. Các chiến hạm này sau khi nhận tiếp tế dầu nước, thực phẩm... sẽ được tàu Mỹ hộ tống qua giao lại cho Hải quân Hoa Kỳ tại căn cứ Subic Bay, Phi Luật Tân.
Vào buổi chiều cùng ngày, sau khi tất cả chiến hạm Hải quân Việt Nam được Tiếp liệu hạm Hoa Kỳ tiếp tế đầy đủ, đoàn công voa lại nhổ neo lên đường. Đoàn công voa theo các chiến hạm Mỹ dẫn dường, hải hành về phía đông bắc, hướng nước bạn đồng minh cũ, với trên dưới 29000 người di tản, tỵ nạn Cộng sản chen chúc trên boong tàu.
Những cuộn khói đen từ các ống khói tàu, vấn vương xa dần sau lái, trôi về phía đất liền xa thẳm, phía tây, nơi mồ mã tổ tiên bị bỏ lại. Những kỷ niệm thời ấu thơ, của cả cuộc đời đang trôi dần vào dĩ vãng, ký ức của người dân Việt, đã quyết định bỏ xứ ra đi vào một cuộc hành trình vô định, vì không muốn sống dưới chế độ độc tài đảng trị của quân xâm lăng Cộng sản miền Bắc.
Phan biết rằng chiến hạm Hạm đội đã khởi hành trước mình một ngày và giờ này có lẽ đang trên đường ra Côn Sơn như lời Đại úy Dõng, Hạm trưởng Tuần duyên đỉnh nói hôm trước. Do đó chiếc tàu đánh cá này với vận tốc qúa chậm so với chiến hạm, sẽ khó bắt kịp đoàn công voa Hải quân. Do đó anh đã đề nghị với vị Đại tá kiếm thêm dầu cặn và trực chỉ ra vị trí của Đệ Thất Hạm đội để được tiếp cứu. Sau khi thăm dò ý kiến của các Sĩ quan có kinh nghiệm đi biển hiện diện trên tàu, ông Đại tá đồng ý tìm các tàu LCU của Quân vận đã bỏ lại rải rác trôi lềnh bềnh trên biển mà mọi người đã thấy chiều tối nay, khi tàu vừa cách bờ Vũng Tàu khoảng trên 12 hải lý, ngoài hải phận của Việt Nam.
Ông ra lệnh đổi hướng tàu và trực chỉ ra phía đông, chạy vào lộ trình mà ông đoán là phần đông tàu di tản đang hải hành. Ông chỉ định thêm quan sát viên chung quanh tàu với ống nhòm để quan sát. Với hải đồ và dụng cụ hải hành mà ông xin được của các chiến đỉnh Hải quân khi vớt họ tại cửa sông Soài Rạp và ba bốn Sĩ quan ngành chỉ huy nhiều kinh nghiệm đi biển, tàu ông có thể đi qua đến Phi Luật Tân hoặc Tân Gia Ba nếu máy khiển dụng tốt cũng như dầu nước đầy đủ. Thực phẩm thì không thiếu vì người tỵ nạn quá giang trên tàu đều mang theo mì gói, sữa đặc, gạo sấy...
Trên bầu trời đầy sao lấp lánh, vầng trăng nửa vành treo lơ lửng về phía tây nam, phía hữu hạm chiếc tàu di tản đang nhấp nhô đi tìm những Duyên vận hạm (LCU) hoặc tàu đánh cá lớn chạy bằng dầu cặn bỏ lại trên biển, để tiếp tế dầu. Phan chăm chú kiểm soát hai máy chánh dưới hầm máy chật hẹp, châm nhớt và điều chỉnh số vòng quay để giữ đúng tốc độ. Người anh mõi nhừ vì suốt gần hai ngày, anh chưa ngã lưng nằm nghỉ; tâm tư thỉnh thoảng nhớ về người yêu, không biết đang lênh đênh nơi bến bờ nào. Phan mong rằng khi đến Subic Bay, anh sẽ tìm gặp Diễm Tú và xin cha mẹ nàng làm lễ cưới ngay tức khắc để hai người bắt đầu cùng nhau lập nghiệp, xây dựng gia đình và không bao giờ xa nhau nữa.
Sau một thời gian khá lâu, tiếng gọi từ phòng lái chuyền xuống theo ống dẫn âm chỉ thị tàu giảm vận tốc xuống, Phan vội vàng đẩy cần điểu khiển hạ số vòng máy và biết rằng có thể tàu đã tìm ra LCU của Quân vận hoặc tàu có nhiên liệu. Quả nhiên sau đó chiếc tàu đánh cá từ từ và cẩn thận vận chuyển cặp vào một chiếc Duyên vận hạm, đang trôi bập bềnh trên sóng. Trên tàu này không một bóng người, không có đèn, tối thui, sàn tàu đầy rẫy va li áo quần, xách tay, dụng cụ, giày dép vương vãi khắp boong chính. Phan bàn giao hầm máy lại cho một Hạ sĩ cơ khí Hải quân quá giang, anh lên sàn tàu để phụ giúp tổ chức những thanh niên, nối đuôi thành hàng dài chuyền tay các xô dầu múc từ hầm chiếc Duyên vận hạm đổ xuống hầm chứa dầu của tàu đánh cá. Công tác tiếp tế tập thể diễn tiến tốt đẹp dưới ánh sáng của ngọn đèn rọi từ phòng lái và tiếng máy rì rầm vang dội trong đêm khuya tỉnh mịch tại vùng biển trời mênh mông.
Con tàu di tản cô đơn trên biển cả mênh mông, tách rời chiếc Duyên vận hạm đang trôi dạt xa dần về phía vô định, tiếp tục hải trình về hướng đông sau khi lấy thêm những phi nước ngọt chất đầy trên boong thượng. Đã gần năm giờ sáng, từ phía chân trời, ánh bình minh như đã bắt đầu nhuộm áng mây hồng lờ lững vắt ngang vũ trụ. Cơn gió biển thổi mát rượi khuôn mặt rạm nắng của người Chuẩn úy, đang chống tay vào thành tàu, trầm ngâm nhìn sóng nước chập chùng, thả hồn về bến mộng xa xôi.
Mặt trời hình tròn, đỏ chói hiện lên dần từ dưới vùng nước xanh, ánh sáng tựa dòng sông lóng lánh, như vàng tỏa rực trên đại dương.
Vào khoảng ba giờ chiều, tàu đang chạy ngon trớn bỗng nhiên vận tốc giảm dần, rồi tiếng máy tàu nổ vài tiếng nhỏ và ngưng hẳn, mọi người tiên đoán hình như máy tàu bị trục trặc. Quả nhiên sau đó họ thấy Phan đang ở trên phòng lái, vội vã chạy xuống hầm máy với ông Đại tá, mặt mày có vẻ rất khẩn trương. Người thợ máy dân sự lúc đó đang đi “quart” hầm máy, giải thích cho Chuẩn úy Phan lý do khiến hai máy chạy bị hư. Phan cổi chiếc áo Hải quân đang mặc, quỳ xuống trên sàn, dùng đèn bin rọi xem xét. Sau đó Phan gọi hai người Hạ Sĩ quan cơ khí mang đồ nghề và dụng cụ sửa chữa đến giúp anh. Phan cũng báo cáo cho ông Đại tá biết là trong dầu có nước hòa lẫn, có lẽ vì khi tiếp tế với dầu của chiếc LCU Quân vận tối hôm trước, dầu Diesel này có nước trong đó mà vì đêm tối nên không ai biết.
Không gian chung quanh chiếc tàu quá im lặng vì không có tiếng máy tàu chạy. Thỉnh thoảng vài cơn gió mạnh thổi ngang qua tàu gây nên tiếng kêu phần phật từ các tấm vải giăng tạm làm lều che nắng cho người đi tìm Tự do. Chiếc tàu đánh cá đầy ắp dân di tản, dật dờ, bồng bềnh trôi theo thủy triều trên mặt biển êm ả. Tiếng người thì thầm nhỏ to, bàn tán với nhau về máy tàu bị hư, về chiến hạm Mỹ không thấy bóng dáng như lời đồn đãi của dân chúng Sài Gòn trước ngày 30 tháng 4.
Phan tháo ống dầu hai máy chánh, rồi với kinh nghiệm của người thợ máy lành nghề, cùng với sự phụ giúp của hai người bạn thủy thủ, anh sửa chữa xong hai máy sau khoảng vài tiếng đồng hồ và mọi người thở ra nhẹ nhõm khi nghe tiếng nổ của máy tàu. Sau khi xác định vị trí trên hải đồ, chiếc tàu đánh cá với chiến đỉnh của Hải đội Duyên phòng dòng phía sau lái chạy trở lại hướng đông bắc vào thủy lộ của đoàn tàu đi kiếm chiến hạm thuộc Đệ Thất Hạm đội. Phan mệt mõi, rửa tay và khoát nước từ chiếc xô kẽm lên mặt, sau đó dự trù tìm một chỗ nghỉ lưng và ăn ổ bánh mì thịt mà gia đình một Sĩ quan đưa cho anh. Suốt hai ngày qua từ lúc lên tàu, vì quá bận rộn với công việc chạy máy tàu, Phan không ăn gì cả, chỉ thỉnh thoảng uống vội một ly nước lạnh mà thôi vì thế nay cảm thấy bụng dạ cồn cào. Tuy nhiên theo thói quen, trước khi nằm nghỉ, anh lấy ống nhòm và quan sát bốn phía với hy vọng tìm thấy một đối vật gì trên mặt biển đang ngả sang màu xanh đậm khi mặt trời bắt đầu thấp xuống dần về hướng tây. Phan nhìn phía tả hạm, không thấy gì khác ngoài những đợt sóng dài và trời biển như dính liền thành một bức ảnh màu xanh. Anh quay về phía hữu hạm, hơi chếch trước mũi tàu, anh chợt ngừng lại, điều khiển ống nhòm để thấy rõ hơn. Xa xa, bay lên từ chân trời xanh đậm, một đợt khói đen mờ ảo, thấp thoáng như mây mỏng. Quan sát viên ngoài phòng lái cũng đã báo cáo cho ông Đại tá về làn khói này và ông ta cũng đang chăm chú đặt ống nhòm quan sát về hướng đó. Có lẽ đây là khói bay lên từ một chiến hạm lớn của Hoa Kỳ đang chạy cùng chiều với chiếc tàu đánh cá.
Phan lại phải xuống hầm máy dù chưa ăn ổ bánh mì thịt. Anh gia tăng số vòng lên tối đa, chiếc tàu rung chuyển thật mạnh dưới sức đẩy của hai máy chánh, khói đen nhả trên bầu trời như dấu hiệu cầu cứu của người lạc trên biển khơi. Độ khoảng một giờ sau chiếc tàu đánh cá bắt kịp chiến hạm Hoa Kỳ, đang ngừng lại trên biển chờ đợi, đây là loại tàu chở dầu (Oiler) cở lớn dùng để tiếp tế ngoài khơi cho các chiến hạm Hoa Kỳ, Hạm trưởng là một Sĩ quan Hải quân cấp bậc Đại tá.
Ông Đại tá chủ tàu thông báo cho Trung tá Hạm phó chiến hạm là hầu hết trong số gần 400 người di tản trên chiếc tàu đánh cá này là quân nhân Hải quân và gia đình rồi ông xin phép Hạm trưởng chấp thuận cho họ lên tàu dầu. Lời thỉnh cầu thiết tha của ông Đại tá không được chấp thuận vì chiếc Nhiên liệu hạm này không thể chở người trên tàu vì lý do an toàn của chiến hạm. Tuy nhiên ông đã yêu cầu Bộ Tư lệnh Đệ thất Hạm đội và được chấp thuận dòng chiếc tàu của dân tỵ nạn ra chỗ tập trung của Hạm đội ngoài khơi. Toàn thể dân di tản đang lo âu vì không được giúp đở, reo hò mừng rỡ khi nghe ông Đại tá loan báo tin vui. Thế là được sống sót rồi, họ ôm nhau, nước mắt chảy dài trên những gò má sạm nắng của các bà mẹ già, thiếu nữ, đàn ông lớn bé nhảy nhót vui mừng vì biết rằng chuyến hải trình tìm Tự do sắp sửa đến bờ. Thượng đế đã che chở và giúp người dân Việt không muốn sống dưới chế độ độc tài Cộng sản, tìm về đất mới.
Màn đêm bắt đầu buông phủ vùng biển đông, gió mát thổi từng cơn làm mọi người cảm thấy phơi phới. Tiếng nói cười tưng bừng như mừng hội lớn khi họ đón nhận những dĩa cơm trắng còn nóng hổi, rau giá xào trứng và thịt nạc heo ngon lành do các đầu bếp Mỹ nấu, chuyền xuống bởi các người thủy thủ trẻ tuổi, từ sau lái chiếc Nhiên liệu hạm. Sau đó dân di tản còn được cung cấp sữa tươi, chuối, cam và táo... Thôi thì đủ thứ thực phẩm, mọi người nhai ngấu nghiến, ngon lành vì họ chỉ ăn mì gói gần hai ngày nay. Phan cũng thế, ổ bánh mì thịt vẫn còn nằm trong chiếc xách tay vì anh quá bận rộn. Một ý nghĩ làm cho anh thắc mắc về sự chuẩn bị quá chu đáo của người Mỹ. Không hiểu có phải đây là một dàn xếp từ lâu chăng. Làm sao mà họ có thể biết người Việt sẽ di tản ra khỏi miền nam Việt Nam, để có thể có một kế hoạch tiếp cứu quá quy mô kể cả cơm trắng, giá xào thịt heo sẵn sàng nuôi người tỵ nạn trên biển? Phan ước mong Diễm Tú và gia đình cũng được may mắn trên chuyến bay đến bờ Tự do.
Chiếc tàu chở dân tỵ nạn được dòng suốt đêm với tốc độ thật chậm đến vùng tập trung của chiến hạm thuộc Đệ thất Hạm đội. Vào khoảng ba giờ sáng, mọi người nhìn thấy ánh sáng tràn ngập một góc trời như ánh đèn của một thành phố nổi. Khi tiến đến gần, mọi người ngạc nhiên và bàng hoàng khi thấy hàng chục chiến hạm đủ loại đang bềnh bồng trong một vùng biển thật rộng lớn, đèn pha rọi sáng trưng, tiếng loa phóng thanh vang dội hòa lẫn với tiếng máy tàu. Không khí thật tưng bừng náo nhiệt như chợ phiên gồm hàng trăm tàu bè, ghe thuyền lớn nhỏ, xà lan chở đầy dân di tản đang chuyển người qua các tàu loại đổ bộ như Dương vận hạm hoặc Tiếp tế hạm, Tuần dương hạm...
Công cuộc cứu vớt dân chúng miền nam Việt Nam thật vĩ đại và quy mô chưa từng thấy xảy ra trong lịch sử nhân loại với hàng trăm chiến hạm Hoa kỳ trợ giúp hàng trăm ngàn dân di tản trong ba ngày đầu kể từ lúc Sài Gòn thất thủ.
Sáng sớm ngày mồng 2 tháng 5 năm 1975, Phan theo sau đoàn người trên dưới 400 đã quá giang trên chiếc tàu đánh cá nhỏ, lần lượt leo qua boong tàu, bước lên chiếc cửa “ramp” phía sau lái của chiếc tàu Dương vận Hạm mang tên Barbour County. Mọi người phải để tất cả hành trang tại chỗ được ấn định, để nhân viên an ninh và thủy thủ đoàn kiểm soát. Phan để chiếc xách tay nhỏ của mình xuống sàn tàu được giăng dây chung quanh, rồi đi vòng qua phía người lính gác, đứng lại đưa hai tay lên trời để những thủy thủ này dùng chiếc máy dò tìm kim loại khám xét. Trước khi lên tàu Mỹ, những quân nhân được thuê để bảo vệ tàu đánh cá, đều phải liệng xuống biển các vũ khí cá nhân của họ. Thuốc lá, thuốc chữa bệnh, aspirin, dầu xanh, dầu cù là cũng bị thủy thủ đoàn liệng xuống biển. Phan được người bạn Hạ Sĩ quan thì thầm cho biết người Tàu Chợ Lớn dấu vàng lá trong các bao thuốc hút, họ quá đau khổ và tiếc của khi nhìn thấy bao thuốc lá này bị ném xuống dòng nước xanh. Phan mỉm cười khi nghĩ đến hoàn cảnh của mình, không một đồng bạc dollar dính túi, chỉ có độ ba bốn tờ giấy một ngàn đồng Việt Nam còn lại của tiền lương tháng vừa rồi nay đã trở thành vô giá trị. Tuy nhiên anh cũng thấy thoải mái vì còn độc thân, chưa lo chuyện đèo bòng, họa chăng khi qua đến đất Hoa Kỳ, gặp lại Diễm Tú sẽ cùng nhau xây dựng mái ấm gia đình.
Chiếc Dương vận hạm chở dân di tản khởi hành trực chỉ về hướng vịnh Subic Bay vào khoảng 3 giờ chiều ngày 2 tháng 5 năm 1975, thời tiết tốt, biển thật êm nên không gây trở ngại và mệt nhọc vì say sóng gì cho hơn 1000 người tỵ nạn đang chen chúc, đứng nằm ở boong dưới, trong lòng chiếc tàu khổng lồ này. Suốt gần hai ngày lênh đênh trên biển đông, nhìn thấy trời nước qua cánh cửa “ramp” mở rộng phía sau lái, hướng đất Mẹ Việt Nam còn ghi lại trong tâm tư của người lính biển, Phan cố tìm quên trong cơn ngủ chập chờn, trí óc lửng lơ theo tiếng ì ầm của máy tàu. Hình ảnh dịu hiền của người yêu cứ vấn vương, lảng vảng trong hồn như muốn vỗ về và nuôi sống niềm hy vọng của anh.
Sáng sớm ngày 6 tháng 5, chiếc Barbour County đã vào hải phận của Phi Luật Tân. Từ xa rặng núi xanh với thành phố Baguio City nổi tiếng đã hiện dần trong sương mù trên mặt biển màu xanh dương. Tàu đổi hướng vào vịnh Subic Bay và thả neo lúc gần 12 giờ trưa. Vị Hạm trưởng tàu thông báo trên máy phóng thanh là các chiến đỉnh nhỏ sẽ lần lượt chuyên chở người tỵ nạn vào bờ, ông chúc mọi người được phước lành và gặp nhiều may mắn trong hành trình còn lại với đời sống mới. Mọi người rất cảm động khi nghe giọng nói nghiêm nghị, trầm ấm rất thành thật của một Sĩ quan Hải quân chỉ huy con tàu đưa họ đến vùng đất Tự do một cách an lành.
Gió mát đại dương lại một lần nữa không xoa dịu được cơn nóng bên ngoài và nỗi lòng buồn tủi của dân Việt Nam tỵ nạn Cộng sản.
Đoàn công voa chiến hạm thuộc Hạm đội di tản hải hành chạy theo đội hình hàng dọc, rời vùng biển Côn Sơn, trực chỉ về vịnh Subic Bay. Một vị Phó Đề đốc chỉ huy đoàn tàu đủ loại gồm trên 30 chiến hạm, trên boong tàu hàng ngàn dân chúng Sài Gòn may mắn chen chúc nhau dưới những tấm bạt, chăn mền, vải ny lông để che cơn nắng chói chang. Biển thật êm ả như mặt nước hồ thu, gió từ hướng đông nam lướt nhẹ trên những đợt sóng dài, thân tàu đong đưa nhè nhẹ như ru ngủ Diễm Tú. Cánh tay mặt không còn thấy đau nhức như tối hôm qua nữa, vết thương nhỏ trên trán cũng gần như bình thường, do đó nàng không cảm thấy khó chịu và đỡ mệt mõi hơn. Tiếng máy tàu vẫn ì ầm xen lẫn những lời loan báo và chỉ thị của vị Đề đốc chỉ huy Hạm đội, cho dân di tản biết giờ phỏng định đến hải phận Phi Luật Tân.
Buổi trưa hôm đó, đoàn tàu có vẻ như chạy chậm lại, sau đó mọi người được cho biết là có vài chiến hạm trong đoàn bị hư máy chánh và thủy thủ đoàn phải di chuyển qua các chiến hạm khác sau khi mở tất cả các “valve” dưới hầm tàu để nước tràn vào, sau đó các chiến hạm Hoa Kỳ dùng hải pháo bắn chìm các tàu bị bỏ lại này.
Trời tối dần trên biển đông lặng gió và những chiến hạm Hải quân như các tàu ma hải hành về vùng nghĩa địa xa vời, nơi yên nghỉ ngàn đời của một Hạm đội từng nổi tiếng trên biển Thái Bình Dương. Chuyến hải trình tìm Tự do của chiến sĩ Hải quân Việt Nam và gia đình cũng như dân sự, quân cán chính quá giang, kéo dài cho tới ngày mồng 7 tháng 5 đoàn công voa mới đến Subic Bay. Nhờ biển thật êm nên mọi người không bị say sóng và mệt nhiều.
Hằng đêm, Diễm Tú nằm ngắm ngàn vì sao lấp lánh trên vũ trụ sâu thẳm muôn trùng, tâm hồn tưởng nhớ đến Phan và thầm khấn nguyện ngày đoàn tụ với người yêu thủy thủ. Nàng đã gặp vài gia đình của người quen với Mẹ, họ thường đi chùa lễ Phật lúc còn ở Sài Gòn. Những người này chia cho Diễm Tú thực phẩm còn chiến hạm thì cung cấp nước uống đầy đủ cho dân di tản. Cơn nắng của mặt trời nhiệt đới chói chang và hơi nước biển mặn làm mặt mày Diễm Tú sạm cháy khó chịu. Nàng nhớ lại những lần cùng gia đình đi nghỉ hè tại Vũng Tàu, mỗi ngày ra Bãi trước, Bãi sau đùa giỡn và tắm nắng với hai em Toàn, Thắng. Những chuổi ngày thơ mộng bên cạnh bố mẹ nay chỉ còn lại trong ký ức dĩ vãng như hình ảnh mơ hồ chua xót, tương lai của Diễm Tú quá mù mịt như bầu trời đêm trên biển vắng.
Sau hơn sáu ngày lênh đênh trên Thái Bình Dương, đoàn công voa Hạm đội di tản vào hải phận Phi Luật Tân và bỏ neo chờ được chấp thuận vào Subic Bay. Diễm Tú nghe các dân tỵ nạn trên tàu nói là chính phủ Phi Luật Tân, một quốc gia đồng minh trước đây, từng sát cánh chiến đấu bên cạnh chiến sĩ Việt Nam Cọng hòa, từ chối không cho chiến hạm Hải quân Việt Nam thả neo trong lãnh hải của họ. Cuộc điều đình và thương thuyết đang xúc tiến giữa Tòa Đại sứ Hoa Kỳ tại Phi Luật Tân và chính quyền địa phương về phương diện pháp lý và luật quốc tế. Chính phủ Phi Luật Tân đe dọa sẽ bắt giữ các chiến hạm Hải quân Việt Nam và dân tỵ nạn quá giang trên đó. Sau một thời gian dài chờ đợi, mọi người được cấp chỉ huy chiến hạm di tản thông báo là chính quyền Phi Luật Tân đồng ý cho phép đoàn tàu vào Subic Bay. Nhưng với điều kiện là quốc kỳ Việt Nam phải được hạ xuống; danh hiệu và số tàu phải xóa đi; các hải pháo được phủ kín lại; đồng thời các quân nhân thuộc mọi Quân binh chủng cũng phải lột bỏ cấp bậc khi tàu tiến vào vịnh.
Buổi lễ hạ kỳ diễn ra trong không khí uy nghiêm, đầy xúc cảm. Hàng vạn người dân miền nam Việt Nam vừa mới mất quê hương, nay lại phải chứng kiến cảnh tượng tủi nhục vì sắp bị tước đoạt danh dự của một Quốc gia. Lá Quốc kỳ màu vàng ba sọc đỏ, do ông Lê văn Đệ, họa sĩ nổi tiếng của thập niên 40, vẽ kiểu và cựu hoàng Bảo Đại cùng toàn dân Việt Nam, 27 năm trước đây chấp nhận. Lá cờ chính thức và tượng trưng chủ quyền của Quốc gia Việt Nam, đang từ từ được hạ xuống từ kỳ đài của các chiến hạm, nay đã trở thành chiến hạm không tên. Tiếng đồng ca uất nghẹn, tức tưởi, ngắt quảng vọng lại khắp boong tàu. Mọi người đầm đìa nước mắt khi cất tiếng hát câu cuối cùng của bài Quốc ca Việt Nam: “Công dân ơi! Mau làm cho cõi bờ thoát cơn tàn phá. Vẻ vang nòi giống, xứng danh nghìn năm... dòng giống Lạc Hồng”, vang lừng trên không trung, dưới bầu trời màu thiên thanh.
Thế là hết, lời thề Tổ quốc-Danh dự-Trách nhiệm của người lính chiến một lần tuyên thệ khi tốt nghiệp và trở thành Sĩ quan Quân lực Việt Nam Cọng hòa, theo dòng nước trong vắt cuộn theo cấp bậc, nón cát két, huy chương...chìm dần xuống đáy đại dương. Có nhiều người vì không chịu nổi cảnh tủi nhục, đã khóc tức tưởi, có người như mất hồn, thơ thẩn đứng nhìn sự nghiệp trôi theo ngọn thủy triều và cũng có người dửng dưng như sẵn sàng chấp nhận định mệnh đang xảy đến với họ.
Diễm Tú khóc ngất khi nghĩ đến đất nước và thân phận mình, nàng oán trách tất cả và cố gắng tìm một lý do để tự an ủi. Mọi việc đã xảy ra quá nhanh, chỉ trong vài tuần lễ, cuộc đổi đời đến với miền Nam Việt Nam, xóa tên một quê hương, tiêu diệt một dân tộc. Những con người mất nước, không lý lịch, nay sắp được gọi chung là dân tỵ nạn Việt Nam, đang nối tiếp nhau, leo thang dây xuống các tiểu đỉnh Hoa Kỳ để được chuyên chở vào vịnh Subic Bay. Họ được di chuyển vào tạm trú tại các căn lều vải quân đội, xây cất tươm tất, để lập thủ tục giấy tờ và chờ chuyến bay qua trại tỵ nạn ở các hòn đảo xa lạ, mang tên đảo Wake, đảo Guam... nằm chơ vơ giữa biển Thái Bình Dương.
Sau khi đứng chờ trong hàng dài người tỵ nạn làm thủ tục đầu tiên, Diễm Tú đi quanh trại tìm xem bố mẹ và hai em Toàn, Thắng có ở tại đây không. Khi đi ngang qua căn lều lớn dùng làm nhà ăn, nàng ghé lại nhận thực phẩm phân phối từ các anh chàng lính thủy Hoa Kỳ. Tay bưng khay thức ăn gồm đủ thứ trái cây, bánh mì sandwich ... nước ngọt, nàng kiếm một chỗ ngồi ngoài sân cỏ với hy vọng gặp được người quen. Diễm Tú ăn ngon lành những thức ăn Mỹ và nàng đưa mắt nhìn quanh khu đất rộng dùng làm trại tỵ nạn cho dân Việt Nam. Những căn lều vải quân đội được dựng lên san sát dưới chân đồi nhiều cây thông không cao lắm. Mỗi căn lều vừa đủ cho một gia đình khoảng sáu bảy người. Trên con đường dẩn qua các lều vải, dân tỵ nạn vừa mới tới hay đã đến đây từ một hai ngày trước, tay ôm tay xách những món quà do cơ quan Hồng thập tự và những drap, gối, khăn lông... do quân đội Mỹ cung cấp. Trong lều đã có sẵn các tấm nệm cho dân di tản nằm. Thật quá đầy đủ, hèn gì mà người ta nói nước Mỹ giàu có là phải. Diễm Tú nghĩ đến những sự kiện vừa xảy ra cho đất nước mình mà phải đi đến kết luận đây là một kế hoạch có tính toán, điều nghiên và chuẩn bị kỹ lưỡng của chính phủ Hoa Kỳ. Từ việc tổ chức Hạm đội Hải quân Việt Nam di tản tập thể, đoàn công voa được chiến hạm Mỹ tiếp tế nhiên liệu, dầu nước ngoài khơi đảo Côn Sơn rồi chỉ định tàu hộ tống và can thiệp với Phi Luật Tân chấp nhận trả các chiến hạm này cho Mỹ, rồi đến việc lo lắng chu đáo, tươm tất, sẵn sàng nuôi hàng vạn người Việt tỵ nạn. Tất cả đã được Hoa Kỳ sắp đặt từ lâu chứ không phải chỉ mới phản ứng khi nghe ông Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng vào sáng ngày 30 tháng 4 vừa qua.
Càng nghĩ nàng càng cảm thấy thương hại cho các nước nhược tiểu như quê hương mình, luôn luôn bị ảnh hưởng và chi phối bởi các đại cường quốc như Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Nga Sô, Trung Cộng... Họ nghĩ rằng vì vận mạng và định mệnh mà các quốc gia nhỏ bé phải gánh chịu, nhưng đây chỉ là lý do tâm lý để người dân khốn nạn và thiếu may mắn bám víu để tự an ủi mình thôi. Tất cả đều là con cờ trên ván bài quốc tế mà trong đó phần thắng cuối cùng, quyền lợi sẽ thuộc về các đại cường quốc.
Đang suy tư với ý nghĩ trong đầu, chợt Diễm Tú nghe tiếng ai gọi tên mình thật lớn một cách ngạc nhiên:
“ Chị Diễm Tú, trời ơi đúng là chị đây mà, thật là may mắn quá...”
Diễm Tú nhận ra Lan, người bạn gái học dưới nàng một lớp và gia đình cha mẹ, ông bà Hoán, cũng ở gần nhà trên đường Công Lý, nàng quá mừng rỡ vì gặp được người quen trên đất tỵ nạn. Nàng đứng dậy, chạy ra nắm tay Lan, hỏi rối rít:
“ Ô kìa Lan, may mắn quá. Tôi đang sợ sẽ không gặp ai quen biết. Đến đây hồi nào? Hai bác và em Thi đâu?”
Lan cũng vui mừng không kém, nàng để mấy đồ đạc vừa đi lãnh từ hội Hồng thập tự xuống đất rồi hai tay ôm Diễm Tú:
“ Lan và gia đình cũng vừa đến sáng hôm qua. Có gặp hai bác và cả Toàn với Thắng, trưa qua tại căn nhà ăn. Nghe đâu hai bác dự trù sẽ đáp một trong vài chuyến bay đầu tiên đi qua đảo Wake vì bác trai nói với ba của Lan là bác muốn vào Mỹ càng sớm chừng nào, tốt chừng đó để bắt đầu cuộc sống mới. À mà Lan nghe bác gái nói là Diễm Tú quyết định không đi theo hai bác, bỏ trở về để chờ anh Phan mà, sao lại đổi ý và làm thế nào qua đây được vậy?”
Diễm Tú kéo tay bạn đến ngồi tại chiếc bàn ăn, nàng rất vui và yên lòng khi biết bố mẹ và hai em đã ra khỏi Việt Nam bình an, nhưng nàng cảm thấy buồn vì nay lại phải mất một thời gian nữa mới gặp lại gia đình:
“Câu chuyện dài lắm, mình sẽ kể cho Lan nghe sau. Diễm Tú hy vọng sẽ gặp anh Phan tại đây vì anh ấy thế nào cũng tháp tùng các chiến hạm Hải quân ra khỏi Sài Gòn khi biết Diễm Tú theo bố mẹ xuất ngoại. Vì thế Diễm Tú sẽ ở lại đây một thời gian nữa để chờ anh Phan rồi sẽ tính chuyện xin qua đảo Wake sum họp với bố mẹ sau.”
Lan móc trong túi áo ra đưa cho Diễm Tú một miếng kẹo cao su, nàng cũng lấy cho mình một cái, vừa nhai vừa kể chuyện:
“ Gia đình Lan đi quá giang trên một thương thuyền Việt Nam từ bến Thương cảng rời Khánh Hội sáng ngày 28, chạy thẳng qua Subic Bay không có gì trở ngại hết. Đến đây là được phép vào trại tỵ nạn lập thủ tục ngay. Lan nghe nói nhiều người bị chết trên biển lúc chuyển tàu lắm. Họ kể là có một thanh niên vì quá mừng rỡ, leo nhanh lên thang dây khi xà lan cặp vào chiến hạm lớn, trật tay té xuống biển bị tàu và xà lan kẹp lại, chết ngay tại chỗ. Ngoài ra nghe tin là có nhiều phi công trực thăng nhảy ra trước khi hạ máy bay xuống biển, bị chết chìm. Còn thật nhiều chuyện thương tâm nữa, Lan nghĩ thật quá tội nghiệp và thấy mình rất may mắn đến được Phi bình an chứ không như những người bất hạnh này.”
Hai người lau nước mắt khi nói về tai nạn đã xảy ra cho người Việt trên chuyến hải trình di tản tìm Tự do. Sau đó Lan hướng dẩn Diễm Tú về căn lều tạm trú dành cho gia đình và một cặp vợ chồng trẻ chưa có con. Mẹ của Lan cũng mừng lắm, bà lấy cho Diễm Tú một ít đồ dụng cụ cá nhân và bảo nàng cứ ở tạm với gia đình bà, cho đến khi nào quyết định rời Subic Bay qua đoàn tụ với cha mẹ tại đảo Wake. Diễm Tú cám ơn hai bác và cảm thấy được an ủi một phần nào. Nàng yên tâm hơn, đi theo Lan lên văn phòng làm thủ tục, ghi danh cho các chuyến bay di chuyển dân tỵ nạn qua hai đảo Wake và đảo Guam đồng thời để hỏi nhân viên làm việc tại văn phòng này xem Phan đã đến đây hay đã chuyển sang các trại tỵ nạn khác chưa?
Chiếc Dương vận hạm loại mới nhất của Hải quân Hoa Kỳ với vận tốc cao và biển êm đã vượt biển Nam Hải và đến Phi Luật Tân chưa đầy 3 ngày. Trong chuyến hải trình, dân di tản ngủ ở boong dưới, trên sàn tàu bằng sắt. Họ được phân phối các tấm cạt tông để lót lưng cho khỏi lạnh, mỗi ngày ăn ba bửa, vừa được phân phát cereal, sửa tươi, cam...để điểm tâm là chuẩn bị ăn trưa, rồi ăn tối. Cánh cửa “ramp” phía sau lái được mở ra thường trực, có màn che làm phòng vệ sinh cho đàn bà, con gái. Mỗi buổi sáng thủy thủ đoàn lấy ống xịt nước biển chùi dọn tươm tất, họ vui vẻ khi làm công việc giúp đở người tỵ nạn, luôn luôn với nụ cười thân thiện và cứ nói “hello”, “hi”, chào ông, chào bà, chào em... không bỏ dấu theo dọng nói của người Mỹ. Có lẽ các người lính thủy trẻ tuổi này đã học lóm được vài tiếng Việt từ các chiến hữu của họ trước đây đã phục vụ tại Việt Nam.
Trong thời gian tàu hải hành, Phan cố tìm quên và qua thời giờ rảnh rỗi hoặc bằng giấc ngủ chập chờn, đọc sách hay viết những lá thư dài không địa chỉ người nhận, trải hết tâm tư mình gửi đến Diễm Tú . Anh mong chiến hạm chóng đến Subic Bay để anh có thể xin qua Guam tìm kiếm gia đình Diễm Tú. Qua những câu chuyện với ông Đại tá, Phan được biết gia đình của ông đã di tản bằng máy bay quân sự của DAO và có thể sẽ đến Guam, nơi mà ông được biết là trung tâm tỵ nạn chính được dùng để đón nhận dân miền nam di tản. Ông cũng khuyên Phan tháp tùng ông vì anh còn độc thân, cần có gia đình và người quen để khỏi cảm thấy cô đơn nơi xứ lạ quê người. Ngoài ra ông rất quý trọng và cám ơn Phan đã giúp cho toàn thể dân di tản trên chiếc tàu, điều khiển và sửa chữa máy tàu, đưa mọi người an toàn đến gặp tàu Mỹ. Phan đã nói cho ông biết lý do chính của Phan là nhất định phải tìm cho được gia đình Đại tá Quả để tái ngộ vớiø Diễm Tú. Ông Đại tá tin rằng họ đã đến Guam nếu đã đáp máy bay của DAO ra khỏi Việt Nam.
Thế rồi khi tàu đến Subic Bay, sau khi làm thủ tục và chứng kiến cảnh tượng nhục nhã khi phải sắp hàng dài, chờ đến phiên mình bị cắt bỏ cấp bậc, huy hiệu trên chiếc áo trận, cùng với các Sĩ quan khác của một Quân đội nổi tiếng oai hùng ngày nào, Phan chán nản không muốn ở lại một ngày nào nữa. Lòng mong muốn sớm gặp lại Diễm Tú nung nấu tâm tư, nên anh theo ông Đại tá lên chiếc xe buýt màu xám Hải quân Hoa Kỳ ra phi trường quân sự, đáp chuyến máy bay tối hôm đó, theo một trong những đợt di tản đầu tiên đưa dân tỵ nạn qua đảo Guam. Nhìn bầu trời màu tím trải dài vô tận ngoài cánh phi cơ qua chiếc cửa sổ nhỏ, Phan cảm thấy tâm hồn trống vắng, cô đơn. Anh buồn nhớ chuỗi ngày theo tàu tuần tiểu trên vùng biển quê hương, ghé thăm các bán đảo đầy hàng dừa xanh rũ bóng trên bờ cát trắng ngà, viếng các danh lam thắng cảnh khi ghé bến, đi bờ. Tất cả kỷ niệm đẹp nay chỉ là dĩ vãng trong tiềm thức. Không biết ngày nào Phan mới tìm lại được giây phút êm đềm bên người yêu, thả bước bên rừng thông bát ngát của đồi vọng cảnh nhìn xuống bờ Hồ Xuân Hương, như lần lên thăm gia đình Diễm Tú tại Đà Lạt một năm trước đây khi Đại tá Quả làm việc ở xứ hoa anh đào.
Hy vọng gặp Diễm Tú tại Guam như ông Đại tá tiên đoán làm cho anh lên tinh thần và nhắm mắt lại cố hình dung khuôn mặt khả ái, mái tóc ngắn, nụ cười xinh xắn của người yêu, rồi chìm dần vào giấc ngủ theo tiếng máy rì rầm của chiếc máy bay chuyên chở quân sự C-130, Hercules của quân đội Mỹ đang xé màn đêm bay về hướng hòn đảo nhỏ nằm trên biển Thái Bình dương.
Chuyến phi vụ bay liên tục không ngừng, trên những cuộn mây trắng dày dặc dưới cánh bay, cuối cùng Phan thấy thất thoáng giữa bầu trời thiên thanh, một vùng đất màu lục đậm có hình dáng như một quả bóng hình bầu dục, dần dần hiện ra trên biển xanh thẳm. Chiếc máy bay lượn vòng trên các ngôi nhà mái bằng phẳng được xây cất như muốn giảm bớt sự thiệt hại do bão tố thường xảy ra tại Guam trong mùa biển động. Sau đó chiếc vận tải cơ khổng lồ đáp xuống phi đạo chạy dài trước các nhà vòm bằng nhôm như tại căn cứ Không quân Tân Sơn Nhất hay Đà Nẳng mà Phan đã thấy trước đây khi đáp phi cơ quân sự ở Việt Nam.
Máy bay chạy vòng vào bải đáp, cánh cửa “ ramp” phía sau từ từ hạ xuống, mọi người cảm thấy hơi nóng thổi vào mặt khi nối tiếp nhau đi xuống chiếc “ramp”, ánh sáng mặt trời miền nhiệt đới chói chang phản chiếu nền xi măng bằng phẳng nóng bỏng dưới bước chân đi. Những chiếc xe buýt quân đội sắp hàng dài chờ đón người Việt tỵ nạn đang ngơ ngẩn, thẫn thờ bước lên. Đợt thứ nhất này được chở đến trú ngụ trong các căn lều vải quân đội rộng lớn, dựng trên bờ cát, được bao quanh bởi dây kẽm gai, tại một nơi gọi là Orote Point. Từng hàng dài người tỵ nạn có lẽ đến đây những ngày trước đang sắp hàng lảnh thức ăn, lơ đảng nhìn dân di tản mới đến, vài người nhón chân, đưa tay vẫy về phía đoàn xe buýt chạy ngang qua, về phía Bộ chỉ huy trại. Tại đây, mọi người lần lượt bước ra khỏi xe buýt và có người vui vẻ khi nghe tiếng người quen gọi tên mình từ đám đông đang đứng chờ tìm kiếm thân nhân, bạn hữu. Vợ con ông Đại tá cũng có mặt trong những người này. Họ mừng rỡ chạy ra, ôm nhau, hôn hít vì quá sung sướng được đoàn tụ, hỏi thăm rối rít về cuộc hành trình di tản. Phan cố tìm xem có gia đình của Đại tá Quả hay không, nhưng thất vọng thấy toàn khuôn mặt xa lạ. Phan tần ngần, cầm chiếc xách tay, đứng cạnh bên rồi cũng cảm thấy vui cho ông Đại tá và gia đình. Anh không biết phải đối xử hay phản ứng như thế nào, định bước đi về phía cửa văn phòng lập thủ tục giấy tờ thì ông Đại tá như chợt nhớ ra, chạy đến, kéo tay anh về phía vợ và ba đứa con, hai trai một gái, tuổi chừng 16, 17, rồi vui vẻ giới thiệu anh với gia đình:
“ Bố giới thiệu đây là Chuẩn úy Phan, người đã giúp bố và các người quá giang trong chuyến vượt biển vừa rồi. Anh Phan không có thân nhân nào đi tỵ nạn hết, vì thế sẽ tạm thời ở với gia đình mình cho đến khi anh quyết định đi lập nghiệp tại các tiểu bang Mỹ.”
Bà vợ mau mắn chào hỏi và tiếp lời chồng:
“ Chào anh Phan, tôi và các cháu vui lắm nếu anh tạm thời ở chung trại với gia đình chúng tôi. Đã quen với ông nhà tôi thì là người nhà, cứ tự nhiên nghe.”
Hai cậu trai thì quá mừng vì thêm người bạn nữa. Riêng đối với Phan, anh cũng cảm kích và thấy mình cũng cần có vài người quen biết cạnh bên để nói chuyện cho đỡ buồn, nên anh vui vẽ theo ông Đại tá về căn lều mà vợ con ông đã sống hơn ba ngày qua, từ khi được máy bay chở đến đây. Sau đó hai đứa con trai dẫn ông Đại tá và Phan lên lảnh thêm đồ đạc, áo quần được nhân viên tình nguyện từ nội địa Mỹ qua giúp hội Hồng thập tự tại Guam. Những bà già Mỹ vui vẻ, nhanh nhẹn chào đón và hướng dẫn người tỵ nạn Việt Nam. Họ phân phối các đồ dùng vệ sinh cá nhân, trả lời các câu hỏi với nụ cười thường trực trên môi, làm cho mọi người cảm thấy khâm phục những tấm lòng vàng của người dân Mỹ đang tham gia vào công việc từ thiện.
Phan hỏi một bà già làm việc tại đây về thể thức và làm thế nào để liên lạc tìm thân nhân trên đảo. Bà ta vui vẻ hướng dẫn và đưa cho Phan một mẫu giấy để ghi chi tiết rồi treo tại bản thông báo tìm người. Cho đến giờ phút đó, Phan mới biết rằng gia đình Đại tá Quả chưa qua đến đảo Guam. Anh rất thất vọng và tự trách mình quá hấp tấp không ở lại Subic Bay thêm vài ngày nữa trước khi qua Guam. Tuy nhiên anh được bà này cho biết hầu hết các người tỵ nạn sẽ đến đây lập thủ thục giấy tờ di trú trước khi được xuất trại vào các trung tâm tỵ nạn khác, đã được thành lập rải rác tại các tiểu bang trong nội địa Hoa Kỳ. Bà già mỉm cười khuyên Phan hãy kiên nhẫn, thế nào cũng gặp lại những người thân nếu họ đã may mắn thoát ra khỏi Việt Nam.
Thế rồi chuổi ngày tỵ nạn kéo dài lê thê trên hòn đảo xa lạ. Mỗi ngày từng đoàn xe buýt chở dân di tản nhập trại càng nhiều, những dãy nhà lều lần lượt đầy ấp với người tỵ nạn vừa được chuyên chở đến từ các phi cơ, thương thuyền cặp bến tàu cách trại không đầy 10 phút. Phan cảm thấy thì giờ sắp hàng đứng chờ vào nhận thức ăn ngày ba bửa tại một trong 8 phạn xá rộng lớn, trên bãi cát nóng, cơn gió oi bức và dưới ánh nắng chói chang của mặt trời miền nhiệt đới, càng lâu thêm vì “ line” dài hơn trước. Những lớp dạy căn bản Anh ngữ cũng được nhiều dân tỵ nạn ghi danh theo học để chuẩn bị cho cuộc sống mới khi vào đất liền. Phan cũng ghi danh học cho qua thì giờ và cũng nhờ vậy mà anh gặp lại được những người bạn Hải quân độc thân khác vừa đến trại Orote Point. Họ kể cho nhau những điều tai nghe mắt thấy trong chuyến hải trình tìm tự do vừa qua, ngán ngẫm cho sự đời vì hành vi hèn nhát của các cấp chỉ huy; khinh bỉ khi nhìn thấy bộ mặt thật, xấu xa của những người trước đây luôn luôn ăn trên ngồi trước, hưởng thụ vật chất đầy đủ vì giàu có và nắm giữ chức vụ quan trọng trong chính quyền Sài Gòn.
Khoảng gần hai tuần lễ sau đó, chiếc tàu Việt Nam Thương tín chở hàng trăm người tỵ nạn từ Phi Luật Tân qua đến Guam. Phan nhớ lại khi chiếc tàu đánh cá di tản chạy ngang qua Căn cứ Yểm trợ Tiếp vận Nhà Bè vào 2 giờ chiều ngày 30 tháng 4, anh nghe là Việt Cộng phục kích tác xạ vào chiếc Việt Nam Thương tín này và nhà văn Chu Tử đã bị tử thương trên đó. Đây là một thương thuyền lớn nhất của Việt Nam, đầy đủ tiện nghi, có khả năng xuyên đại dương mà Hàng hải thương thuyền Việt Nam đã xữ dụng chuyên chở hàng hóa đường quốc ngoại trong thời gian mấy năm vừa qua.
Gia đình ông Đại tá đối xử với Phan rất tốt, xem anh như người thân trong nhà, chia xẻ đủ thứ. Ông ấy còn giúp Phan một ít tiền dollars để mua đồ lặt vặt tại các xe bán hàng, ngoài những thứ được phân phát, cung cấp mỗi ngày kể cả thuốc hút. Dù vậy, Phan vẫn cảm thấy buồn và chán nản với cuộc sống kéo dài lê thê, vô vị, nhất là vì không nhận được tin tức gì về người yêu của mình. Anh thất vọng mỗi lần lên chờ đoàn người mới nhập trại, vì gặp toàn cả khuôn mặt xa lạ, riêng gia đình ông Quả thì vẫn biệt tăm biệt tích. Tiếng loa phóng thanh loan mục nhắn tin càng làm cho Phan mất dần niềm hy vọng. Anh thắc mắc không biết Diễm Tú đang ở đâu? Có gặp trở ngại gì vào giờ phút cuối hay không.
Phan nghe bạn bè nói còn có đảo Wake, nằm về phía tây của Guam, cũng được dùng làm nơi thâu nhận các dân tỵ nạn Việt Nam và họ đề nghị anh liên lạc gửi thư tìm kiếm xem có may mắn gì không. Vì thế anh cũng đã nhờ Hồng thập tự nhắn tin tìm Diễm Tú, rồi hằng đêm, nằm trên chiếc ghế bố quân đội, nghe gió biển thổi luồn qua căn lều vải, tay gác lên trán, đăm chiêu suy nghĩ, chán đời, thầm trách người yêu và cảm thấy bất mãn với chính mình.
Thời gian chầm chậm trôi qua, đã gần một tháng kể từ ngày Phan nhập trại Orote Point , những người tỵ nạn đến rồi đi. Có những người muốn xuất trại sớm, họ thức dậy từ sáng sớm, khi trời còn tối thui, sắp hàng dài trước phòng di trú, làm đơn ghi tên xin vào Mỹ, tại một trong bốn trại tỵ nạn đã được xây cất tại các tiểu bang California, Arkansas, Pennsylvania và Florida. Nhiều người có thân nhân ở Pháp, Gia Nã Đại, Úc châu... cũng xin được đoàn tụ với gia đình tại đệ tam quốc gia này.
Ngày hôm nay, khi đi ngang qua văn phòng di trú, anh chú ý đến một số nhân viên Hải quân, thuộc thủy thủ đoàn của những chiến hạm di tản, bị theo tàu khi Hạm đội Hải lực khởi hành từ Côn Sơn ngày 1 tháng 5 qua Phi Luật Tân, đang sắp hàng dài trước một văn phòng mới như chờ làm giấy tờ. Đây là những quân nhân độc thân hoặc gia đình vẫn còn sinh sống ở Việt Nam, không muốn đi Mỹ, họ muốn ghi danh xin giúp phương tiện trở về đoàn tụ với vợ con, cha mẹ tại quê nhà. Văn phòng Cao Ủy Liên Hiệp quốc này vừa được thành lập thâu nhận đơn và lập thủ tục cho những người muốn trở về. Phan gặp vài người Sĩ quan và Hạ sĩ quan quen từ trước, họ có vẻ rất vui vì có cơ hội và hy vọng được rời khỏi trại tập trung khổng lồ và về gặp lại gia quyến.
Cuối cùng tin vui chợt đến với Phan khi anh thấy trên danh sách tại hội Hồng thập tự tên của Đại tá Quả đã được máy bay chở đến tạm trú ở đảo Wake vào ngày 4 tháng 5 năm 1975. Phan mừng rỡ như điên, chạy về báo tin cho bạn bè và gia đình ông Đại tá. Mọi người đều mừng rỡ và chia vui cùng anh. Sau đó anh lên văn phòng di trú xin nhắn tin cho ông bà Quả và cho Diễm Tú... Ba ngày sau, anh nhận được một tin làm anh quá sửng sốt và đau khổ đến tận tim cang. Ông Quả cho biết là vào giờ phút cuối, Diễm Tú đổi ý không theo gia đình xuất ngoại và quay trở về tìm kiếm Phan. Trong thư hai ông bà chua cay trách móc Phan và nói rằng có lẽ giờ này Diễm Tú vẫn còn ở lại Sài Gòn để chờ Phan đến đón nàng.
Thế là hết hy vọng, Phan cảm thấy oán hận đời, trách mình đã làm cho Diễm Tú phải kẹt lại. Anh bất mãn, uất ức và rồi khi nghe hai người bạn Hải quân khuyến khích, Phan lên văn phòng Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp quốc, ghi đơn xin theo thủy thủ đoàn chiếc tàu Việt Nam Thương tín để trở về tìm Diễm Tú ở Sài Gòn.
Cuộc sống tại trại tạm trú Subic Bay càng ngày càng lắng xuống khi số thuyền nhân tỵ nạn do tàu Mỹ cứu vớt ngoài khơi biển Nam Hải ít dần, sau một thời gian kể từ khi quân Cộng sản lái xe tăng T-54 ủi sập cổng vào dinh Độc lập trưa ngày 30 tháng 4. Dân tỵ nạn được sắp đặt và chuyên chở trên các phi cơ hay thương thuyền lớn qua trại tập trung trên đảo Guam hoặc trên các chuyến bay quân sự qua đảo Wake.
Diễm Tú vẫn kiên lòng chờ đợi Phan, nàng tin rằng sau khi nhận được thư của nàng để lại nhờ chú Năm trao cho anh, thế nào Phan cũng tìm phương tiện ra khỏi Sài Gòn trước khi miền Nam thất thủ. Không ai biết rõ tính tình người yêu bằng Diễm Tú, luôn luôn thích ứng với mọi hoàn cảnh, rất tháo vác và dễ yêu.
Gia đình của Lan đã đi đảo Wake tuần vừa rồi, sau khi ở dưỡng sức và chờ bà con thân thuộc gần hai tuần lễ, ba của Lan nói với mọi người là không có gì gấp rút phải đi ngay, vì còn gia đình chú tư, cô sáu trên đường qua Phi Luật Tân. Tính tình của người thương gia, sống thoải mái với công việc buôn bán hàng ngày, không vội vàng và tính toán đã làm cho bác ấy có vẻ bình thãn với biến cố xảy ra. Bác nói với Diễm Tú là nếu thua lỗ keo này bác sẽ bày keo khác, có gì mà phải lo. Thật khác hẳn với tính tình của bố Diễm Tú, lúc nào cũng vội vã, nóng nãy, mọi việc phải làm ngay tức khắc.
Diễm Tú có nhờ Lan mang theo lá thư của nàng viết cho bố mẹ, trong đó nàng giải thích và xin bố mẹ tha lỗi về hành động vừa qua của nàng, vì nàng không thể làm gì khác hơn. Nàng quá yêu Phan và nhất quyết phải ở lại đây chờ Phan và sẽ là người cuối cùng rời trại tạm trú tại Subic Bay. Diễm Tú hẹn sẽ gặp cha mẹ trên đảo Wake trong thời gian gần đây. Nàng rất mong lá thư này được Lan chuyển tới tay bố mẹ khi gia đình Lan đến Wake.
Ngày tháng trôi qua chậm chạp, thời tiết trở nên nóng hơn và thỉnh thoảng mưa rào buổi chiều càng làm oi bức thêm. Diễm Tú vừa được cho biết là chỉ còn vài chuyến bay chở số người tỵ nạn còn lại qua đảo Guam mà thôi và tất cả dân di tản phải ghi danh trên các phi vụ này. Nàng ghi tên vào chuyến sắp đến, rồi sữa soạn hành trang và viết cho cha mẹmột lá thư cho biết là nàng sẽ phải đi Guam thay vì qua đảo Wake.
Chuyến bay C-130 Hercules sơn màu rằn ri khởi hành khi bình minh vừa ló dạng trên vùng biển màu xanh. Từ trên cao nhìn xuống, vịnh Subic Bay nhỏ dần rồi bị che khuất dưới đám mây trắng sau đuôi máy bay. Hơn một tháng đã trôi qua kể từ ngày Diễm Tú rời Sài Gòn trên chiếc Dương vận hạm của Hải quân Việt Nam. Thời gian chờ đợi Phan ở trại tỵ nạn này làm cho mặt mày nàng trở nên sạm nắng. Những điều nhận xét trên chuyến hải trình tìm Tự do làm nàng suy nghĩ suốt đêm thâu và cảm thấy lớn lên từ thể xác đến tâm hồn. Chỉ trong một thời gian ngắn ngủi, một cô sinh viên được cha mẹ nuông chìu, sống trong tiện nghi đầy đủ, nay trở nên tháo vát, tự lập và đầy khả năng sinh tồn cá nhân. Nàng nhìn thế giới và nhân loại dưới đôi mắt khác hơn trước khi chứng kiến những gì xảy ra chung quanh mình. Nàng cảm xúc trước tâm hồn vị tha, đầy nhân đạo của nhân viên thiện nguyện làm việc với hội Hồng thập tự, những quân nhân Mỹ vui tính, sẵn sàng giúp đỡ các dân Tỵ nạn, những y tá, bác sĩ tận tụy săn sóc, chữa bệnh các em bé, người già cả... Ngược lại cuộc đổi đời cũng làm cho người con gái Việt di tản nhận thấy bộ mặt thật của các nhân vật, trước đây sống trên nhung lụa, ăn trên ngồi trước, lợi dụng cuộc di tản, công khai bỏ vợ, bỏ con đem theo tiền của, dẫn bồ bịch, vợ bé chạy ra ngoại quốc.
Câu chuyện tranh giành lên tàu, ý định xô thiếu nữ xuống biển của một thanh niên di tản để choán chỗ, tượng trưng cho sự khiếp nhược của các thành phần tham sinh úy tử. Khi sắp hàng chờ làm thủ tục giấy tờ xuất trại, họ nhảy hàng tỉnh bơ lại còn lớn tiếng sừng sộ khi người đứng phía sau bực mình, lên tiếng chỉ trích.
Diễm Tú chìm đắm với ý nghĩ đang quay cuồn trong đầu khi máy bay đạt lên cao độ ấn định, vượt biển Thái Bình dương trực chỉ về bán đảo nhỏ nằm giữa biển khơi cách gần một ngày bay. Trên chuyến bay này có một cặp vợ chồng trẻ ngồi cạnh bên, người vợ mang thai, có lẽ khó chịu vì bào thai hành hay sao mà thỉnh thoảng Diễm Tú thấy anh chồng cứ xây qua nói nhỏ và xoa bụng vợ hoài. Một lúc sau, anh ra hiệu xin người lính không quân Mỹ đang đứng gần cửa “ramp”, một ly nước lạnh cho người vợ trẻ.
Khoảng năm sáu giờ từ khi phi cơ rời Subic Bay, Diễm Tú lại thấy cô này nhăn nhó và anh chồng gọi người lính cho biết vợ anh đang chuyển bụng đẻ. Người lính Không quân gọi máy báo cáo cho phi công biết và chỉ vài phút sau, từ trong phòng lái phía trước, một Sĩ quan, có lẽ là phi công phụ và hai người khác trong bộ áo quần bay màu ô liu nhạt, vội vàng chạy ra đến gần hỏi thăm hai vợ chồng. Sau đó họ dìu cô vợ trẻ đưa ra khu vực nhỏ phía sau phòng lái. Mọi người đều lo lắng và cầu nguyện cho bà mẹ tương lai. Thế rồi khoảng một giờ sau, hòa lẫn với tiếng động cơ máy bay, hành khách nghe thoang thoảng tiếng trẻ con khóc oe oe. Người chồng chạy ra tin cho mọi người biết vợ mình vừa sinh một bé trai kháu khỉnh nhờ tài đở đẻ của người phi công phụ. Ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm và không khí trên máy bay trở nên thân mật hơn vì biến cố bất ngờ này.
Cũng vì sức khỏe của hài nhi và người vợ trẻ không mấy khả quan, vị Sĩ quan phi công trưởng gọi máy về Bộ chỉ huy, báo cáo sự kiện và trường hợp khẩn cấp, xin được phép đáp xuống phi trường đảo Wake thay vì phải bay qua Guam, với thời gian còn dài, có thể nguy đến tính mạng của hai mẹ con. Bộ chỉ huy chấp thuận, do đó sau khoảng một giờ tiếp tục bay trên biển, chiếc C-130 hạ cánh xuống phi đạo chạy dài dọc theo bờ biển đảo Wake. Khi cánh cửa “ramp” mở ra, ngọn gió chiều mùa hè thổi vào mát rượi, Diễm Tú thấy chiếc xe Hồng thập tự và y tá đang chờ sẳn, bên cạnh ba chiếc xe buýt sơn màu xám Không quân. Hai mẹ con được y tá đặt nằm trên băng ca đưa ra xe cứu thương, anh chồng tay xách vai mang hành lý chạy theo, miệng cám ơn người tỵ nạn rối rít.
Mọi người lần lượt xuống khỏi máy bay và được thông báo vì trại còn trống chỗ sau khi nhiều đợt dân tỵ nạn đã di chuyển vào các trại ở nội địa Hoa Kỳ, do đó nhân tiện cấp cứu cho hài nhi, những người trong chuyến bay này sẽ tạm trú tại đây thay vì tiếp tục qua đảo Guam. Diễm Tú quá mừng rỡ vì hy vọng gia đình mình còn ở tại đây, chưa được di chuyển vào đất liền.
Đoàn người di tản lại một lần nữa xách hành trang, nối đuôi nhau lên xe buýt và đến văn phòng di trú cách đó chừng không đầy mười phút xe chạy. Hai bên đường những căn nhà gạch xinh xắn, nhỏ nhắn nằm san sát nhau. Trước sân nhà là các cây miền nhiệt đới như cây “bồ hòn” thấp lè tè. Trên vệ đường từng đám người tỵ nạn Việt Nam, lũ lượt chậm rãi đi trong ánh nắng buổi chiều. Họ lơ đãng, không chú ý nhìn ba chiếc xe buýt cuốn bụi mù, chạy ngang qua, có lẽ họ đã quen thấy cảnh người đến, kẻ đi trong thời gian cư trú tạm thời tại một bán đảo xa xôi mà trước đây ít người Việt Nam biết đến.
Xe buýt dừng lại trước căn nhà lớn, có đề dòng chữ viết bằng Việt ngữ “ Văn phòng lập thủ tục”, nơi chào đón dân di tản mới tới. Sau khi làm giấy tờ nhập trại, nhận phiếu ăn để nhận thực phẩm tại một trong hai phạn xá lớn, họ được chỉ định nơi tạm trú tại các căn nhà gạch trước đây nghe nói dùng làm nơi cư ngụ cho gia đình của các quân nhân Không quân đồn trú tại hòn đảo hẻo lánh này. Nay bỏ trống vì quân số giảm thiểu, cũng như vị trí và điều kiện thiên nhiên của đảo Wake, chỉ có thể liên lạc với thế giới bên ngoài bằng phương tiện hàng không. Rừng san hô bao quanh đảo không thuận tiện cho tàu lớn ra vào. Trên đảo không có nước ngọt nên Không quân đã xây những hồ xi măng lớn để chứa nước mưa và dùng máy hơi nước để chế nước ngọt dùng cho việc nấu ăn và uống. Người tỵ nạn tắm rửa bằng các vòi nước biển tại các phòng tắm công cọng rải rác sau những dãy nhà.
Việc đầu tiên sau khi Diễm Tú đi về căn nhà tạm trú là đi tìm gia đình. Nàng đã được cho biết một trung tâm điều hành có đầy đủ danh sách của người tỵ nạn và nơi cư ngụ của họ. Trung tâm này cũng cách nơi nàng ở không xa lắm. Tại đây nàng gặp nhiều người quen cho biết gia đình bố mẹ đã được bảo trợ bởi “sponsor”, mà bố nói với họ là nhà thờ của Cố vấn Mỹ cũ. Gia đình rời bán đảo Wake cách đây hơn hai tuần, nghe đâu họ di chuyển đến trại tỵ nạn ở đất liền Camp Pendleton, California. Gia đình Lan cũng vừa xuất trại ngày thứ bảy vừa rồi để qua Forida. Thế là thêm một lần nữa, định mệnh trớ trêu lại thử thách sự kiên nhẫn của người con gái sắp ăn mừng sinh nhật lần thứ 21. Nàng ngồi lặng người trên chiếc ghế gỗ trước văn phòng điều hành, hai tay ôm đầu thất vọng và bất mãn với chính mình.
Lần này Diễm Tú không muốn ở lâu nơi trại tỵ nạn này và quyết định đi vào ghi danh xin đoàn tụ gia đình ở Camp Pendleton. Như một ngã rẽ của cuộc đời và do cơ duyên sắp đặt trước, sau khi trình giấy tờ chứng minh sự liên hệ với gia đình Đại tá Quả, nàng được chấp thuận ưu tiên trong phi vụ chuyển dân Việt Nam đi tìm Tự do vào lục địa Hoa Kỳ sáng ngày hôm sau.
Diễm Tú cầm giấy tờ về chuyến bay, thờ thẫn lê bước trên con đường dọc theo bờ biển đầy gành đá, tâm tư trống vắng và như muốn buông thả với dòng đời. Nàng đã chạy theo định mệnh và bị chối bỏ. Diễm Tú cảm thấy lòng kiên nhẫn và niềm hy vọng gặp lại Phan ở Sài Gòn cũng như tại nơi này, từ nay đã tan thành mây khói.
Ngước mặt lên nhìn bầu trời xanh đã ngả qua màu tím nhạt, Diễm Tú để đôi dòng lệ lăn tràn qua khóe mắt, chảy dài trên gò má sạm nắng. Nàng lầm lũi đi trong bóng xế hoàng hôn về nơi vô định..
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.