Các hình thức ẩn dụ (phần 1)
Aristotle và các loại ẩn dụ
Aristotle thảo luận về ẩn dụ trong hai tác phẩm: Poetics (Thi pháp học) và Rhetoric (Tu từ học).
Trước hết, trong Poetics[i],
Aristotle phân biệt các loại danh từ. “Bất chấp cơ cấu của nó như thế
nào, một danh từ luôn luôn phải, hoặc là (1) chữ thông thường để chỉ sự
vật, hoặc (2) một chữ lạ, hoặc (3) một ẩn dụ, hoặc (4) một chữ có tính
cách trang trí , hoa hòe, hoặc (5) một chữ mới tạo ra, hoặc (6) một chữ
kéo dài, hoặc (7) một chữ rút gọn hoặc (8) thay đổi hình thức. Ông lần
lượt giải thích từng loại danh từ một. “Một chữ thông thường” là chữ sử
dụng chung trong một xứ sở và một chữ xa lạ (nước ngoài) là chữ sử dụng
ở một nơi khác. “Một chữ sáng tạo” là chữ chỉ được dùng bởi nhà thơ,
hoàn toàn xa lạ đối với
mọi người…
Trong định nghĩa ngắn gọn: “Ẩn dụ có nghĩa là quy
cho sự vật nào đó một cái tên mà tên này thuộc về một sự vật khác; sự
dịch chuyển có thể là từ loại (species) đến giống (genus)[ii]
(lấy giống thay loại), hoặc từ giống đến loại (lấy loại thay cho
giống), hoặc từ loại đến loại (lấy loại thay cho loại), hoặc dựa trên
nền tảng của sự tương tự”, Aristotle muốn kết hợp tất cả mọi thành phần
của ẩn dụ vào trong một toàn thể mạch lạc. Đó là một ý niệm xuất hiện
theo trật tự: để tạo ra một ẩn dụ, người ta phải, hoặc là hướng lên
trên để tìm một hạn từ tổng quát hơn; chuyển xuống dưới để tìm một hạn
từ đặc thù hơn;
đi ngang để tìm một hạn từ tương đương; hay sử dụng một loại tương tự
cổ điển dựa theo tỷ lệ.
Như thế là có bốn hình thức ẩn dụ. Aristotle đưa ra những ví dụ sau để giải thích các hình thức đó:
Hình thức 1: giống thay loại. Ví dụ: This ship of mine stands there (Chiếc tàu tôi đậu ở đó.) Đậu (loại) thay cho “thả neo”
(giống). (stand thế cho lying at anchor). Chữ “đậu” có ý nghĩa tổng
quát (vì dùng chung để chỉ sự dừng lại ở một chỗ nào đó) hơn chữ “thả
neo” (chỉ dùng sự dừng lại của chiếc tàu).
Loại ẩn dụ này về sau được các nhà nghiên cứu ngữ
học gọi là hoán dụ (metonymy), qua đó có sự tương cận giữa hai yếu tố,
lấy cái “toàn thể” thay cho cái “thành phần” (whole for part)
Hình thức 2:
loại thay giống. Ví dụ: Indeed ten thousand noble things Odysseus did.
(Quả thực là Ulyssis đã thực hiện cả chục ngàn công việc cao cả.) “Chục
ngàn” (loại) thay cho “một số rất lớn” (giống); “chục ngàn” có ý nghĩa
đặc thù hơn “một số rất lớn” có ý nghĩa tổng quát.
Loại ẩn dụ này về sau được gọi là đề dụ
(synecdoche), cũng có sự tương cận giữa hai yếu tố, nhưng ngược hẳn với
loại 1, ở đây, lấy cái “thành phần” thay cho cái “toàn thể” (part for
whole).
Hình thức 3: loại thay loại. Ví dụ: Then he drew
off his life with the bronze (sword)/Then with the bronze cup he sever
the water (cut the flow of blood). (Rồi hắn kết liễu đời mình với lưỡi
gươm đồng và với lưỡi gươm đồng hắn cắt đứt mạch máu). Nhà thơ dùng chữ
“draw” theo nghĩa của từ “sever” và từ “sever” theo nghĩa của từ
“draw”. Cả hai đều cùng có nghĩa là “lấy đi” (take away). Umberto Eco
gọi ẩn dụ này là “ẩn dụ ba hạn từ” (metaphors of three terms), một là
“hạn từ ẩn dụ” (metaphorizing, tức là vehicle), hai là “hạn từ được ẩn
dụ” (metaphorized, tức là tenor) và ba là “hạn từ trung gian”
(intermediary)[iii]
Loại ẩn dụ này về sau cũng được sắp xếp trong loại
dụ pháp “hoán dụ”, trong đó lấy cái “thành phần “ thay thế cho cái
“thành phần” (part for part).
Hình thức 4:
Tương tự. Có 4 hạn từ A,B,C,D liên hệ với nhau chặt chẽ đến nỗi, nếu
hạn từ A so với hạn từ B cũng như hạn từ C so với với hạn từ D, thì
người ta có thể thay hạn từ D cho hạn từ B hay B thay cho D.
Nếu A -> B cũng như C -> D, thì ta sẽ có ẩn dụ: “A là C của B” hay “C là A của D”
Ví dụ a: The wine cup (A) is to Dionysus (B) as the shield (C) is to Ares (D)
Chiếc tách (A) đối với Dionysus (B) cũng giống như cái khiêng (C) đối với Ares (D).
Từ đó, ta có thể nói: “Chiếc tách là cái khiêng của Dionysus” hay “Cái khiêng là chiếc tách của Ares.”
Ví dụ b: old age (A) to life (B) as the evening (C) to day (D)
Tuổi già (A) đối với cuộc đời (B) cũng như buổi chiều (C) đối với một ngày (D).
Từ đó, ta có cách nói ẩn dụ: “Tuổi già là buổi chiều của cuộc đời” hay “Buổi chiều là tuổi già của một ngày.”
Ví dụ c: Cũng có 4 hạn từ, nhưng trong đó, hạn từ C không có tên riêng (gọi là x như một ẩn số):
Nếu “A thì B” tương tự với “x thì D”: A/B = x/D
Bằng cách thay A vào x, ta sẽ có: “A là D” là hình thức ẩn dụ
Chẳng
hạn: Ném một “hạt mầm” xuống đất thì gọi là “gieo” trong lúc “tia sáng
mặt trời” cũng ném ánh sáng xuống nhưng không hay chưa có tên (ẩn số x)
để chỉ chuyển động đó[iv]. Nói khác đi, gieo (A) đối với mầm (B) cũng như không tên (x) đối với tia sáng mặt trời (D). :
“Gieo hạt mầm” (sowing seed) tương tự như “x…tia sáng mặt trời”
Do đó, dựa vào sự tương tự, ta thay A vào x: gieo những tia sáng mặt trời. (sowing of sun rays)
- cái chân (A) đối với cơ thể (B) cũng giống như x đối với cái bàn (D): “chân bàn” (the leg of the table).
- một “cái cổ” (A) đối với cơ thể (B) cũng như x đối với “cái chai”: “cổ chai” (the neck of the bottle).
Do quan hệ lân cận, cả ba hình thức 1,2 và 3 về sau
đều được gọi là hoán dụ và bao gồm ba phó loại: toàn thể thay cho thành
phần, thành phần thay cho toàn thể và thành phần thay cho thành phần.[vi]
Chỉ có hình thức thứ 4 mới là ẩn dụ, theo cách hiểu của các nhà nghiên cứu về ẩn dụ ngày nay.
Các hình thức ẩn dụ theo Pierre Fontanier
Theo Pierre
Fontanier, ẩn dụ là “trình bày một ý tưởng dưới ký hiệu của một ý tưởng
khác sinh động (frappante/gây ấn tượng) hơn hay được biết nhiều hơn
(connue), mà ý tưởng này lại chẳng có một liên hệ nào với ý tưởng đầu
tiên ngoài liên hệ của một sự giống nhau (conformité) hay tương tự nào
đó (analogie). Fontanier rút gọn thành 5 loại[vii]:
1. Trình bày một sự vật sinh động (chose animée)
bằng một sự vật sinh động khác; nghĩa là chuyển đến một sự vật sinh
động cái vốn là đặc điểm của một sự vật sinh động khác. Ví dụ: Người
đàn ông này là một con chồn. Chuyển đặc điểm (tinh ranh) của
con chồn (một sự vật sinh động) đến cho con người (một sự vật sinh động
khác); ý nói người đàn ông này tinh ranh (như con chồn). Cũng thế: Nàng
là một con chim bồ câu. Chuyển ý nghĩa (hiền lành) của chim bồ câu đến cho “nàng”
2. Trình bày một sự vật trừu tượng bằng một sự vật
vật lý không sinh động (inanimée/physique). Ví dụ: Mùa xuân của cuộc
đời. Chuyển ý nghĩa “thời gian khởi đầu” chứa đựng trong “mùa xuân” là
sự vật vật lý không sinh động đến “cuộc đời” là một sự vật không sinh
động có tính cách trừu tượng.
3. Trình bày một sự vật sinh động bằng một sự vật
không sinh động. Ví dụ: tên sát nhân này là một tai họa của xã hội.
Dùng “tai họa” là sự vật không sinh động để chỉ “tên sát nhân”, một con
người, là sự vật sinh động.
4. Trình bày một sự vật vật lý không sinh động bằng
một sự vật vật lý sinh động. Là loại ẩn dụ qua đó, người ta nói về một
sự vật không sinh động có tính cách vật lý bằng một cái thường để chỉ
một sự vật sinh động. Ví dụ: dày vò bởi lòng hối hận, trút bớt nỗi phiền muộn, chận đứng sự giận dỗi, thả lỏng
dục vọng. Lòng hối hận, nỗi phiền muộn, sự giận dỗi, dục vọng là những
điều bất động có tính cách vật lý được trình bày như những sự vật sinh
động: dày vò, trút bớt, chận đứng, thả lỏng. Vì cả hai đều thuộc về thế giới vật lý, Fontanier gọi đây là những “ẩn dụ vật lý” (métaphore physique)
5. Trình bày một sự vật trừu tượng bằng một sự vật
sinh động. Là loại ẩn dụ qua đó, người ta nói về một sự vật không sinh
động có tính cách tinh thần bằng một cái vốn được dùng để nói về sự vật
sinh động, có tính cách trí tuệ và tự do. Ví dụ: Kinh nghiệm là bậc thầy của nghệ thuật; Thời gian là người an ủi tốt nhất. Bậc thầy, người an ủi là sự vật sinh động (có tính cách tinh thần)
để chỉ sự vật trừu tượng là kinh nghiệm, thời gian. Vì cả hai yếu tố
đầu có tính cách trừu tượng, thuộc về tinh thần nên Fontaniet gọi đây
là những “ẩn dụ tinh thần” (métaphore morale)
Nếu giản dị hóa, Fontanier cho rằng chỉ có hai loại
ẩn dụ: ẩn dụ vật lý (métaphore physique) và ẩn dụ tinh thần (métaphore
morale).
Hình thức từ vựng và chức năng văn phạm của ẩn dụ [viii]
1. Ẩn dụ danh từ:
Đây là hình thức ẩn dụ thông thường nhất. Tùy theo chức năng văn phạm của danh từ, loại ẩn dụ này có thể chia thành:
· Danh từ làm chủ từ:
- Đóa hoa trong tiệc cưới này thật kỳ diệu (Đóa hoa là ẩn dụ ám chỉ một người phụ nữ)
- Con cọp này đã chiến đấu đến cùng (Con cọp là ẩn dụ ám chỉ một người dũng sĩ)
Loại ẩn dụ này thường được gọi là ẩn dụ quy chiếu (référentielle) và có tính lặn (in absentia), nghĩa là vắng mặt,
vì chỉ có danh từ quy chiếu (tức là đóa hoa trong ví dụ trước, con cọp
trong ví dụ sau) có mặt còn danh từ ẩn dụ (tức là người phụ nữ trong ví
dụ trước, người dũng sĩ trong ví dụ sau) không có mặt trong câu.
· Danh từ làm thuộc từ của chủ từ:
- Phụ nữ này là một đoá hoa
- Người đàn ông này là một con cọp trong cuộc chiến đấu
Người ta còn gọi đây là ẩn dụ vị ngữ (predicative). Loại ẩn dụ này được gọi là ẩn dụ trội (in praesentia), nghĩa là có mặt,
vì cả danh từ ẩn dụ lẫn danh từ quy chiếu đều có mặt trong diễn ngôn.
Ẩn dụ quy chiếu thường phát sinh từ sự thay thế (substitution). Đại
diện cho khuynh hướng này là Aristotle, Jakobson, Genette, Fontanier.
Danh từ ẩn dụ thay thế cho một danh từ khác (mà nó thay thế) vắng mặt
trong câu. Người ta có thể cải tả (paraphraser) câu này bằng cách thế
danh từ làm ẩn dụ (métaphorisant) bằng danh từ được dùng làm ẩn dụ
(métaphorisé). Ở đây, ẩn dụ chỉ quan tâm đến một từ duy nhất trong câu.
· Danh từ làm tán thán từ:
- Nàng tiên của tôi ơi!
Loại ẩn dụ này ít khi được khảo sát.
· Danh từ làm đồng vị ngữ (apposition)
- Người phụ nữ này, một đóa hoa của thành phố, đã đến dự hội
- Giáo sư X, một Einstein của thế kỷ 21, sinh trưởng ở Việt Nam
Trong
những ẩn dụ như thế này, ta thấy sự có mặt của hai hạn từ, hạn từ ẩn dụ
và hạn từ được ẩn dụ, nghĩa là một hạn từ nghĩa đen và một hạn từ nghĩa
bóng.
· Danh từ làm bổ ngữ:
- Paris là trái tim của nước Pháp
- Nàng là vị cứu tinh của đời tôi
Loại ẩn dụ này có thể phân tích theo kiểu ẩn dụ tỷ lệ (proportionnelle), tức là ẩn dụ loại 4 của Aristotle:
- “Paris là trái tim của nước Pháp” có thể hiểu là “Paris đối với nước Pháp cũng như trái tim đối với cơ thể con người”.
- “Nàng là vị cứu tinh của đời tôi” có thể hiều là: “Nàng đối với cuộc đời tôi cũng như một người anh hùng đối với đất nước”.
· Danh từ làm bổ ngữ gián tiếp (complément indirect) hay bổ ngữ chỉ nơi chốn, phương tiện…
- Cách đây hai tuần tôi đã trải qua những ngày hè trong một thiên đường thực sự.
· Danh từ riêng:
- Tay Pisasso của thế kỷ này đã hoàn thành hai bức tranh kiệt xuất.
- Ông X, một Mozart của thế kỷ 21, đã từ trần hôm qua.
2. Ẩn dụ tính từ:
- tĩnh mạch hiu quạnh (Lưu Diệu Vân)
- tình yêu chín tới
- sân ga ngái ngủ
- dãy phố già nua
Kết hợp giữa danh từ và tính từ, ta có “ẩn dụ liên giác” (cross-sensory) hay “synesthesia”[ix] là sự kết hợp hai giác quan khác nhau. Ví dụ:
- giọng nói lạnh lùng (giọng nói: thính giác; lạnh lùng: xúc giác)
- cái nhìn sắc lẻm (thị giác + xúc giác)
- niềm vui rổn rảng (Chinh Yên),
- tiếng chìa khóa lạnh lẽo, khô khốc tra vào cửa (Ngô Nguyên Dũng)
Cũng với cách kết hợp như thế, ta còn có “nghịch dụ” (oxymore)[x] là loại ẩn dụ mang lại gần hai hạn từ có ý nghĩa trái ngược nhau. Ví dụ:
- nắng khuya (TCS)
- một nỗi dịu dàng cay đắng,
- một ánh lửa lạnh lẽo,
- un silence assourdissant/một sự lặng lẽ ồn ào; soleil noir/mặt trời đen (Beaudelaire)
- jeune vieillard/một ông già còn trẻ (Molière)
3. Ẩn dụ phân từ (participe):
loại ẩn dụ này thường được tìm thấy khá phổ biến trong tiếng Pháp. Ví
dụ: pétrifié d’étonnement (ngạc nhiên đến sững sờ), fondant en larmes
(đầm đìa nước mắt), glacé de crainte (lạnh cóng vì sợ hãi), brûlé de
désirs (cháy bỏng khát vọng)
4. Ẩn dụ trạng từ (phó từ):
- Nàng hôn tôi (một cách) nồng nàn, tôi nắm tay em (một cách) tha thiết; mưa vẫn bướng bỉnh rơi (rơi một cách bướng bỉnh), những cây súng nằm (một cách) hiền lành (Nguyễn Phan Thịnh)
5. Ẩn dụ động từ:
- chiều rơi, chiều buông, ươm nắng, lùa nắng cho buồn vào mắt em (TCS)
- Pháo bông đã làm tổn thương bầu trời
- Lời tuyên bố của bộ trưởng ngoại giao đã hàn gắn lại tình hữu nghị giữa hai nước.
Trong
các loại ẩn dụ trên, những ẩn dụ động từ và tĩnh từ hay trạng từ thường
đưa đến tình trạng vi phạm ngữ nghĩa (semantic violation) trầm trọng
nhất, thậm chí đưa đến sự phi lý, sự lệch lạc (écart/deviation), nhưng
lại khiến cho câu văn hay câu thơ đậm đà hơn, lạ lùng hơn và gây nhiều
ấn tượng đặc biệt, đưa đến những chuyển biến ý nghĩa vô cùng phong phú.
Mặt khác, sự lạm dụng loại ẩn dụ này cũng sẽ khiến cho văn phong trở
nên màu mè, kênh kiệu và rỗng tuếch.
Thang ẩn dụ [xi]
Genette thành lập một thang ẩn dụ, từ những ẩn dụ hiển lộ (explicite) cho đến những ẩn dụ ngầm (implicite).
Lấy một ẩn dụ với hai yếu tố: tình yêu (amour) và ngọn lửa (flamme).
Tình yêu là cái được ẩn dụ (métaphorisé), tức là yếu tố chính (“tenor”
theo Richards hay target/đích theo Lakoff). Ngọn lửa là cái tạo nên ẩn
dụ (le métaphorisant), tức là yếu tố phụ (“vehicle” theo Richards hay
“source”/nguồn theo Lakoff)[xii]. Mặt khác, thang này còn dựa vào hai tính chất căn bản: trội/có mặt và lặn/vắng mặt.
1. Ẩn dụ so sánh năng động:
Tình yêu tôi cháy bùng như ngọn lửa.
Đặc tính của ẩn dụ này là:
- trội: chủ đề chính và chủ đề phụ đều có mặt.
- nghĩa tố (sème isolé) rõ ràng, đó là “cháy bùng”,
một tính chất của nhiệt hay hơi nóng. Nó là điểm nối, là trung gian
giữa hai yếu tố tình yêu và ngọn lửa, tạo ra một sự tương tự. Với sự có
mặt của yếu tố trung gian này, ẩn dụ có tính chất năng động (motivée),
xác định khiến ta không lẫn lộn với một vài tính chất khác, cũng của
nhiệt như tạo ra ánh sáng, có sự linh động (lung linh)…
- có một hệ từ (modalisateur) là “như”. Chính hệ từ này đóng vai trò hình thức then chốt của ẩn dụ.
2. Ẩn dụ so sánh không-năng động:
Tình yêu tôi giống như một ngọn lửa.
Ẩn dụ này có đặc tính:
- trội
-
nghĩa tố ẩn tàng (implicite). Không cho ta biết tính chất của ngọn lửa
để từ đó liên hệ với tình yêu. Ẩn dụ này là không-năng động, bất xác,
để tùy nghi cho trí tưởng tượng.
- có hệ từ trung gian là “giống như”, có tính chất so sánh, ví von
3. Ẩn dụ đồng hóa năng động:
Tình yêu tôi là một ngọn lửa rực cháy.
Ở đây, cần phân biệt giữa “so sánh” (comparaison)
và “đồng hóa” (assimilation). Cả hai đều mô tả sự so sánh, nhưng khác
nhau ở chỗ: so sánh thì có hệ từ “như”, “giống như”, “y như” còn đồng
hóa thì không. Trong ví dụ này, hai yếu tố xem như “đồng hóa” nhau:
tình yêu là ngọn lửa
Ẩn dụ này có đặc tính:
- trội.
- nghĩa tố rõ ràng, đó là “rực cháy”
- không có hệ từ trung gian.
4. Ẩn dụ đồng hóa không năng động:
Tình yêu tôi là một ngọn lửa.
Ẩn dụ này có đặc tính:
- trội.
-
nghĩa tố ẩn tàng, nó không cho ta biết tình yêu giống ngọn lửa ở cái
gì. Người nghe sẽ tự đoán lấy, hay tìm biết ý nghĩa bằng cách dựa vào
ngữ cảnh hay dựa vào tình trạng phát ngôn.
- không có hệ từ đối chiếu trung gian. Vai trò then chốt là động từ “là”.
Đây
là một loại ẩn dụ mơ hồ vì nó không có nghĩa tố, không có hệ từ trung
gian. Có vẻ như là một định nghĩa hơn là ẩn dụ (nhưng mà là ẩn dụ!).
Chẳng hạn như câu khẩu hiệu của nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam: “Yêu
nước là yêu chủ nghĩa xã hội”. Loại ẩn dụ loại này thường dược sử dụng
trong tuyên truyền chính trị và quảng cáo, nhưng rất nguy hiểm, nhất là
nếu được dùng trong nghiên cứu khoa học.
5. Ẩn dụ đồng hóa năng động nhưng không so sánh:
Ngọn lửa rực cháy của tôi.
Ẩn dụ này có đặc tính:
- trội
- nghĩa tố rõ ràng
- không có hệ từ trung gian
6. Ẩn dụ đồng hóa không- năng và động không- so sánh:
Ngọn lửa của tôi.
Ẩn dụ này có đặc tính:
- lặn: chỉ có yếu tố phụ, yếu tố làm ẩn dụ là “ngọn lửa” có mặt nhưng yếu tố chính, yếu tố ẩn dụ là “tình yêu” không có mặt.
- nghĩa tố ẩn tàng
- không có hệ từ trung gian.
Hai loại ẩn dụ cuối cùng này gần với ẩn ngữ (énigme).
Các hình thức ẩn dụ theo trường phái “Ngữ học nhận thức” (cognitive linguistic view)
Các ẩn dụ ý niệm có thể sắp xếp theo nhiều hình thức khác nhau tùy theo các cách khác nhau. Zoltan Kovecses[xiii] đề ra bốn cách xếp loại:
1. Xếp loại theo mức độ quy ước (Conventionality): Theo cách sắp xếp này, ở hai cực, ta sẽ có ta sẽ có hai mức độ:
- Mức độ quy ước cao (highly conventional/conventionalized) .
Đó là những ẩn dụ được sử dụng bình thường trong đời sống hàng ngày do
những người bình thường nhằm đến những mục đích bình thường. Do đó, một
số ẩn dụ trở thành độc đoán (arbitrary), sáo, mòn đến nỗi không ai nhận
ra là ẩn dụ. Nói khác đi, đó là những ẩn dụ đã được từ vựng hóa (…)
- Phi-quy ước hay mới mẻ (unconventional/novel). Đó
là những ẩn dụ hoàn toàn mới mẻ, độc đáo do các nhà văn, nhà thơ sáng
tạo ra và chưa hề được ai dùng trước đó. Những ẩn dụ này được tìm thấy
trong các bài thơ.
2. Xếp loại theo chức năng nhận thức (Cognitive function):
Sắp xếp theo cách này, các ẩn dụ sẽ được xem như là những ẩn dụ ý niệm,
nghĩa là chính ý niệm trong chúng ta đã mượn ngôn ngữ để thể hiện. Có
ba loại:
a. Ẩn dụ cơ cấu (structural metaphors): trong loại
ẩn dụ này, lãnh vực nguồn sẽ cung cấp cơ cấu nhận thức cho lãnh vực
đích. Ví dụ: thời gian trôi (như bóng câu qua cửa sổ) (xem thời gian như một vật đang chuyển động). Dùng vật chuyển động để hiểu khái niệm về thời gian.
b. Ẩn dụ thực thể (ontological metaphors): Đây là
những ẩn dụ cho ta nhìn thấy một loại thực thể có một cấu trúc rõ ràng
đối với các phạm trù và ý niệm trừu tượng. Nói cách khác, để hiểu những
ý niệm trừu tượng như tinh thần, hạnh phúc, danh vọng…, ta hình dung
chúng như những vật cụ thể. Chẳng hạn như xem tinh thần là một bộ máy
hay một cái thùng chứa. Đầu óc tôi sáng này rỗng không (xem tinh thần như một bình đựng đồ vật); Leo lên đỉnh cao danh vọng (xem danh vọng như một trái núi). Nhân cách hóa là một hình thức của ẩn dụ thực thể.
c. Ẩn dụ định hướng (orientational metaphors): là
những ẩn dụ nhận thức dựa vào các định hướng không gian căn bản của con
người, chẳng hạn như cao, thấp, trong, ngoài, trên dưới. Cái gì thuộc về hạnh phúc, niềm vui, danh vọng, giàu sang, thành công thường được hiểu như đi lên, cao; ngược lại, cái gì thuộc về thất bại, buồn chán, nghèo đói, bần cùng được hiểu như thấp, đi xuống. Ví dụ: Rớt xuống bùn nhơ, lên đài vinh quang. Cái gì thuộc về bên trong thường có ý nghĩa gần gũi, thân mật, gắn bó; cái gì thuộc về bên ngoài là xa lạ, lỏng lẻo. Ví dụ: con cháu ngoại, con cháu nội.
3. Xếp loại theo bản chất:
- Ẩn dụ dựa trên kiến thức (knowledge metaphor)
- Ẩn dụ dựa trên hình ảnh (image metaphor), còn được gọi là ẩn dụ đồ-hình (image-schema metaphor).
4. Xếp loại dựa trên mức độ tổng quát:
- Ẩn dụ mức độ phổ quát (generic-level)
- Ẩn dụ mức độ đặc thù (specific level)
Dù đề ra bốn cách xếp loại, trong thực tế, vì cho rằng
ẩn dụ có tính cách ý niệm từ trong bản chất, và do đó, bao hàm chức
năng nhận thức, nên cách xếp loại dựa theo chức năng nhận thức (loại 2
trên đây) là cách xếp loại căn bản của trường phái “Ngữ học nhận thức”.
Quan điểm này sẽ được thảo luận một cách chi tiết trong một bài khác
bàn về tính cách ý niệm trong ẩn dụ.
(Còn tiếp)
Chú Thích:
[i] Aristotle, Poetics, bản dịch Anh văn của Ingram Bywater, NewYork 1984, có tham khảo thêm Umberto Eco, Semiotics and the Philosophy of Language, Indiana University Press, 1984, phần 3, Metaphor, từ tr. 87-129.
[ii] Xếp loại từ nhỏ đến lớn như sau: species (loại), genus (giống), family (họ), order (bộ), class (cấp)…
[iii] Umberto Eco, Semiotics & the Philosophy of Language, Indiana University Press, 1986, tr. 92-93.
[iv] Sowing to seed as X
to sun rays, while the action of the sun in scattering his rays is
nameless; still this process bears to the sun the same relation as
sowing to the seed.
[v] Eco, sđd, tr. 94.
[vi] Xem thêm bài “Nhận diện ẩn dụ”, cùng tác giả, phần nói về hoán dụ và đề dụ, damau.org.
[vii] Pierre Fontanier, Les figures des discours, Flammarion, Paris 1977 (101-103).
[viii] Tham khảo Catherine Détienne, “Quelle est la forme lexicale et la fonction grammaticale de cette métaphore”?
[ix]
Synesthesia (Greek, syn = together + aesthesis = perception) is the
involuntary physical experience of a cross-modal association.
[x] Oxymore : une figure de style
qui vise à rapprocher deux termes (un nom et un adjectif) que leurs
sens devraient éloigner, dans une formule en apparence contradictoire.
(Wikipédia).
[xi] Genette (1970) (Dẫn theo C. Détienne), http://www.info-metaphore.com/ grille/explicite-implicite- tertium-comparationis- comparaison-motivee-in- praesentia-absentia.html
[xii] Về các khái niệm tenor/vehicle hay target/source, xem Trần Hữu Thục, Nhận diện ẩn dụ: ẩn dụ và hoán dụ, phần bàn về “Đụng độ ngữ nghĩa”, trang mạng Da Màu ; xem thêm Ẩn dụ / qua dòng lịch sử, phần 2, cùng tác giả, trang mạng Da Màu, đoạn bàn về tác giả Richards.
[xiii] Zoltan Kovecses, Metaphor, a Practical Introduction, Oxford University Press, NY 2002, tr. 29-41.
Các hình thức ẩn dụ (phần 2)
Các hình thức ẩn dụ tổng quát
Ngoài các hình thức ẩn dụ được những nhà nghiên cứu về ẩn dụ đề ra trên
đây, ta còn tìm thấy sự phân loại các ẩn dụ một cách tổng quát dựa trên
cấu trúc, tính cách, nội dung của những sáng tác của các nhà văn, nhà
thơ, nhà chính luận…[i]
· Ẩn dụ đơn giản (simple metaphor)
Là
ẩn dụ qua đó ý nghĩa từ chủ đề phụ chuyển cho chủ đề chính có tính cách
phổ thông, tương đối đơn giản, không đòi hỏi nhiều nỗ lực từ người nghe
nếu muốn hiểu.
- Niềm vui đã trở lại với nàng (nàng vui vẻ)
- Cô ta ăn nói độc mồm độc miệng (lời nói ác)
- Hắn nổi nóng (nổi giận)
Ẩn dụ đơn giản còn được gọi là ẩn dụ chặt (tight metaphor)
· Ẩn dụ chìm (submerged metaphor)
Khác với ẩn dụ đơn giản, trong ẩn dụ chìm, phải trải qua một hoặc hai bước liên tưởng mới có thể hiểu được ẩn dụ.
- Tiền không mọc trên cây
“Mọc
trên cây” làm liên tưởng đến “lá” hay “cành”; lá hay cành phát triển tự
nhiên, dễ dàng, không tốn nhiều công sức. Ý nghĩa chính: kiếm tiền
không dễ dàng.
· Ẩn dụ khuyết (dormant metaphor)
Là
ẩn dụ trong đó, liên hệ giữa chủ đề chính và chủ đề phụ không rõ ràng.
Nó có thể được hình thành khi một câu chưa hoàn chỉnh hay bị giản lược.
- Tôi bị lạc lối trong suy tưởng.
- Nàng đánh rớt tình yêu.
Ẩn dụ khuyết ít gây ấn tượng, vì nó không đưa ra một hình ảnh toàn diện. Y như thể nó còn ngái ngủ (dormant).
Là ẩn dụ chưa hề được dùng bao giờ trước đó. Có thể
xem đó là ẩn dụ mới, một sáng tạo của nhà văn hay nhà thơ. Ẩn dụ mới là
cách dùng chữ mới mẻ để truyền đạt một ý mới mẻ, có khi là hoàn toàn
mới mẻ, thường được sử dụng trong thơ hay trong những bài diễn văn hùng
biện nhằm kích thích cảm quan của người nghe. Thường thường là từ ngữ
và ý nghĩa của nó không dễ dàng hiểu ngay, đòi hỏi người nghe phải suy
nghĩ về cách dùng và ý định của tác giả. Những ẩn dụ mới thường kén
chọn độc giả, vì đòi hỏi trí tưởng tượng, sự thấu hiểu về thơ và kiến
thức. Nếu khéo chọn chữ và hình ảnh, ẩn dụ sống sẽ là dấu hiệu của tài
năng; nếu không khéo chọn, nó sẽ trờ thành một lối nói hoa mỹ dở dang.
Ẩn
dụ này còn được gọi là ẩn dụ sống (live metaphor)
- Mỗi tiếng hát như một lát dao băm vào vết đau khổ trong lòng mình (Chinh Ba)
- Hơi thở thơm ngát
- Anh dốc ngược đời mình (Cao Thoại Châu)
- Mà lòng mình phơi trên kè đá (Thanh Tâm Tuyền)
Lời
nhạc Trịnh Công Sơn là một kho ẩn dụ hoàn toàn mới mẻ vào thời điểm mà
chúng xuất hiện. Nó mới mẻ và sống động đến nỗi cho đến bây giờ, năm
mưoi năm sau, một số trong chúng vẫn còn mới mẻ, vẫn gây ra một cảm
giác thích thú y như khi chúng mới xuất hiện lần đầu. Chúng vẫn còn là
những ẩn dụ sống;
- Đôi khi trên mái tình ta nghe những giọt mưa, tình réo tình…sầu réo sầu…; Môi nào hãy còn thơm, cho ta phơi cuộc tình; Treo tình trên chiếc đinh không. Vân vân
Tuy nhiên, thật ra, khó mà nói một ẩn dụ là tươi
mới hay không, vì ngôn ngữ phát triển hàng ngày. Cái ta tưởng là ẩn dụ
mới, độc sáng, có thể đã có ai đó dùng rồi, đâu nó, mà ta không có dịp
tiếp cận. Đó là ngày trong phạm vi nhỏ của một nền văn hóa như ở Việt
Nam. Còn rộng ra trên thế giới và từ cổ chí kim thì thật khó mà kiểm
chứng tính mới mẻ và sáng tạo của một ẩn dụ. Tuy nhiên, trừ trường hợp
đạo văn, đạo thơ, mới vẫn là mới. Ẩn dụ tươi sống luôn luôn là dấu hiệu
của tài năng.
· Ẩn dụ ẩn tàng (implicit metaphor)
Là loại ẩn dụ ta không tìm thấy ngay ý nghĩa của nó trong một câu hay một đoạn văn, thơ. Những
ẩn dụ này đòi hỏi phải đặt trong ngữ cảnh của bài văn, bài thơ hay
trong khung cảnh của một sự kiện, một giai đoạn lịch sử, một biến cố
nào đó.
Ta nhặt từng trang sách rách toangđứa ngu đã xé vứt ra đườngta gom từng hạt cây luân lạcmong mỏi gầy lên một địa đàng
(Tô Thùy Yên, “Mùa hạn”)
Ta chỉ có thể hiểu ẩn dụ bao hàm trong đoạn thơ nếu đặt trong ngữ cảnh của bài thơ Mùa Hạn,
đồng thời chứng kiến cảnh những người Cộng Sản thi hành chính sách gọi
là “bài trừ văn hóa đồi trụy” (đốt sách) sau biến cố tháng 4/1975 ở
miền Nam.
· Ẩn dụ phức hợp (complex metaphor)
Xảy
ra khi một ẩn dụ đơn là cái nền cho một ẩn dụ thứ hai. Ví dụ: “ánh sáng
ném đến” (throwing light). Ở đây ánh sáng là ẩn dụ để chỉ kiến thức.
Thay vì nói “Ánh sáng soi chiếu” (shining light) thì lại dùng “ném”
(throwing). “Ném” là ẩn dụ thêm vào dựa trên ẩn dụ thứ nhất là “soi
chiếu.”
· Ẩn dụ ghép (compound metaphor)
Ẩn dụ gồm có nhiều thành tố ẩn dụ kế tục nhau, mỗi một thành tố có thể được dùng để tạo thêm nghĩa mới, nhất là khi được tăng cường thêm bởi những trạng từ hay tính từ.
Ẩn dụ gồm có nhiều thành tố ẩn dụ kế tục nhau, mỗi một thành tố có thể được dùng để tạo thêm nghĩa mới, nhất là khi được tăng cường thêm bởi những trạng từ hay tính từ.
Là cô liêu chói chang
Tinh âm buốt hết nàng
Nằm chết xanh tuyệt đối
Một trời thơ đỏ ối
Ta khóc rống ly tan
Mưa trong veo hồn đàn
(Nguyễn Lương Vỵ, trong “Tinh âm”)
Trong đoạn thơ trên, tác giả tạo ra
những ẩn dụ riêng biệt nhưng kết nối vào nhau. Có thể nói trong lúc “ẩn
dụ phức hợp” gồm những ẩn dụ kế tiếp nhau, cái này tạo điều kiện cho
cái kia thì ẩn dụ ghép là một cú ra đòn liên tiếp, ẩn dụ này chồng lên
ẩn dụ kia, tạo ra một ấn tượng dịch chuyển đột ngột. Những cụm từ như
“chói chang”, “buốt”, “chết xanh”, “đỏ ối”, “khóc rống” vừa có tính
cách tính từ lại vừa có tính cách trạng từ tăng cường tối đa sức mạnh
của ẩn dụ.
Loại ẩn dụ còn được gọi là ẩn dụ lỏng (lẻo) (loose metaphor).
· Ẩn dụ mở rộng (extended metaphor)
Là ẩn dụ khi chủ đề chính được tăng cường với những chủ đề phụ và các ẩn dụ bổ sung khác.
Tay chới với bên đờiKhi xác thân là điểm tựaAnh chọn hoài một phút xa anhđể thấy anh còn đó
đong đưa đời mình trên chiếc dây đuôi tấm thảm oan khiên giăng chờ anh phía dướiliều lĩnh nào cũng chỉ dẫn nỗi sầu qua
(Hà Nguyên Thạch)
Khác hẳn với loại “ẩn dụ ghép” trên
kia, qua đó, ta không tìm thấy một chủ đề nào rõ rệt, đoạn thơ trên
được triển khai bằng những ẩn dụ bổ sung lẫn nhau, đề cập đến một chủ
đề chính: tính chất mong manh của đời sống trong thời nhiễu nhương.
· Ẩn dụ gượng (mixed metaphor)
Cũng
có thể gọi là “hỗn dụ”, là loại ẩn dụ trong đó các yếu tố tạo thành ẩn
dụ không gắn kết với nhau hoặc nếu có gắn kết thì cũng rất gượng gạo,
nên không làm nổi bật chủ đề chính. Có thể nói ẩn dụ gượng là loại ẩn
dụ được sử dụng bởi những tay mơ, sính dùng cách nói hoa hòe, nhưng sáo
rỗng.
The waves of emotion have punctured my heart. (Những đợt sóng xúc cảm đã đâm thủng trái tim tôi)
Ẩn
dụ thương có tính cách đụng độ ngữ nghĩa, nhưng không phải bất cứ một
đụng độ ngữ nghĩa nào cũng tạo nên ẩn dụ thực sự có giá trị. Câu phát
ngôn trên là một cấu trúc ẩn dụ. Ví von các đợt sóng với cơn xúc động
thì nghe hợp lý, nhưng xem đợt sóng như con dao/một vật nhọn để “đâm
thủng” trái tim thì rõ là quá gượng gạo.
Một ẩn dụ tuyệt đối là ẩn dụ tuyệt đối không có một
mối liên hệ nào giữa chủ đề và ẩn dụ, không có một sự tương tự nào, dù
xa hay gần giữa chủ đề chính và chủ đề phụ. Ẩn dụ tuyệt đối còn được
gọi là siêu dụ (pataphor) hay phản dụ (antimetaphor). Đó
là một hình thức ẩn dụ tối đa, chạm đến giới hạn, nơi ẩn dụ chính không
được nêu ra, chỉ có những ẩn dụ mở rộng được sử dụng mà không cần quy
chiếu:
He put brakes on his fear, accelerated his anger and rammed into the house.
(Hắn hãm (phanh) nỗi sợ, nhấn ga (tăng tốc) sự giận dỗi và đâm sầm vào căn nhà)
Ẩn dụ nói chung là mang đến những ấn tượng mới mẻ,
nhưng trong hình thức cực đoan của nó, siêu dụ mang lại những điều cực
mới đến chừng như vô nghĩa và bí hiểm. Siêu dụ lần đầu tiên được diễn
tả bởi tác giả Pablo Lopez, dựa trên khái niệm về một thứ “khoa học”
gọi là “pataphysics” do Alfred Jarry (1873–1907) đề ra.[ii]
Trong văn học Việt Nam, có thể xem lời của hai bản
nhạc “Vết lăn trầm” và “Dấu chân địa đàng” của Trịnh Công Sơn là một
loại siêu dụ.
Vết lăn vết lăn trầm
Hằn trên phiến đá nâu thêm ưu phiền
Như có lần chim muông hằn dấu chân
Người đi phiêu du từ đó chưa thấy về quê nhà
Rộng đôi cánh tay chờ mong
Người chợt nhớ mình như đá, đá lăn vết lăn trầm(“Vết lăn trầm”)Ngựa buông vó người đi chùng chân đã bao lần
Nửa đêm đó lời ca dạ lan như ngại ngùng
Vùng u tối loài sâu hát lên khúc ca cuối cùng
Một đời bỏ ngỏ đêm hồng
Ngoài trời còn dâng nước lên mắt em.(“Dấu chân địa đàng”)
Đây là một cấu trúc chữ khác thường, dùng ngôn ngữ để
phá ngôn ngữ. Lời ca dường như không chuyển tải một ý nghĩa nào, hay
nếu có, là một ý nghĩa cực kỳ mơ hồ. Những ẩn dụ như thế chứa đựng
trong lời ca này hoàn toàn tách rời khỏi hiện thực. Ý nghĩa của nó, nếu
có, nằm ngay trong cấu trúc ngôn ngữ. Có thể nói ý nghĩa của nó được
tìm thấy trong sự vô nghĩa. [iii]
· Ẩn dụ gốc (Root metaphor)
Là
ẩn dụ ăn sâu trong một ngôn ngữ hay một nền văn hóa, trở thành một quan
niệm sống hay là một cách hành xử bình thường trong một nền văn hóa nào
đó. Thời gian là tiền bạc: ví von thời gian với đồng tiền là
quan niệm chủ đạo của con người sống trong một xã hội công nghiệp (khác
với cách ví von: thời gian là bóng câu qua cửa sổ); Con trâu là đầu cơ nghiệp: xem sức kéo là điều kiện đầu tiên để làm giàu trong một xứ nông nghiệp; Cuộc đời là một giấc mộng: một cách nhìn bi quan về cuộc sống của người Á đông.
Ẩn dụ gốc thường gắn liền với một nền văn hóa nào
đó, trong một giai đoạn nào đó mà không tìm thấy ở những nền văn hóa
khác ở một giai đoạn khác.
· Ẩn dụ ý niệm (Conceptual metaphor)
Là loại ẩn dụ không bày tỏ một cảm xúc cá nhân về
một hoàn cảnh đặc thù, mà chứa đựng một ý niệm triết lý nào đó. Ở đây,
ẩn dụ được dùng như một cách nhìn thế sự và cuộc nhân sinh.
có lẽ huyền thoạiđã bỏ chúng mình lạigiữa thân xác rách đôiđể nhắc nhở sự thật sau cùnglà chưa từng có
biển hay mặt trờichỉ cóvết thương kinh niên của nướcnỗi vô vọng mù lòa của lửa
cũng như chưa từng cóem hoặc tôichẳng qualà hai bàn tayquờ quạng suốt đời trong quên lãng
thế thôi (Chân Phương)
Ngôn
ngữ nhẹ nhàng, mềm mại như một áng thơ tình, nhưng lại ẩn chứa một cảm
thức siêu hình: ý niệm về sự chênh vênh của con người và/trong vũ trụ.
Cũng cần phân biệt: ẩn dụ ý niệm ở đây khác với
quan niệm cho rằng “ẩn dụ là ý niệm” của Lakoff. Ẩn dụ ý niệm, sau khi
Lakoff and Johnson công bố tác phẩm “Metaphors We Live By” thành lập
nên trường phái “Ngữ học nhận thức” (cognitive linguistics), không phải
là một hình thức ẩn dụ, mà là một quan điểm về ẩn dụ. Theo quan điểm
này, ẩn dụ có tính ý niệm ngay trong bản chất. Nghĩa là, không phải chỉ
có một số ẩn dụ nào đó thuộc về hình thức ý niệm, mà tất cả những ẩn dụ
đều là ý niệm. Lakoff và Johnson dùng chữ “ẩn dụ” để chỉ những đồ chiếu
ý niệm (conceptional mappings) bởi vì chúng là cái duy nhất chịu trách
nhiệm về hiện tượng được gọi một cách truyền thống là ẩn dụ. Chính ý
niệm nằm đàng sau ngôn
ngữ và khiến cho ngôn ngữ tạo ra ẩn dụ. [iv]
· Ẩn dụ chết (dead metaphor)
Những
ẩn dụ do được sử dụng quá nhiều, lập đi lập lại qua thời gian, dần dà
mất hết đi tính cách tươi tắn, sáng tạo và trở thành một ý tưởng hay
hình ảnh thông thường. Ví dụ: dòng đời, lãng phí thời gian, ngập đầu trong công việc, mở mang trí tuệ, chiếm đoạt tình yêu, con tim rung động, hại sức khỏe (hút thuốc có hại cho sức khỏe), xâm phạm tiết hạnh, hỏi thăm sức khỏe (sở thuế vụ đã đến hỏi thăm sức khỏe anh ta), Sở Khanh (hắn ta nổi tiếng là một tay sở khanh), vân vân.
Nhiều nhà ngữ học không chấp nhận cái gọi là ẩn dụ
chết, vì ẩn dụ là ẩn dụ, không chết và cũng không sống. Người ta xem đó
như là hiện tượng của một ẩn dụ đã trở thành quy ước, hòa tan trong
ngôn ngữ hàng ngày, nhưng bản chất vẫn là ẩn dụ. Do đó, ẩn dụ chết
không hề là một loại hình riêng biệt của ẩn dụ, mà chỉ là một quan niệm
về ẩn dụ. Ẩn dụ chết, thực ra, là ẩn dụ từ vựng (lexical metaphors),
nghĩa là ẩn dụ đã biến thành từ vựng, ghi lại trong tự điển, trở thành
cách dùng phổ biến trong một cộng đồng bản ngữ. Mặt khác, một ẩn dụ có
thể là “chết” ở một nơi này, đối với người này, vào thời điểm này nhưng
vẫn là “sống” ở một nơi khác, với một người khác hay tại một thời điểm
khác.
· Ẩn dụ mòn (dying metaphor)
Hạn từ này xuất hiện lần đầu tiên trong bài tiểu luận Politics and the English Language của George Orwell [v].
Đó là thứ thứ ẩn dụ đã được sử dụng quá nhiều đến nỗi nó không còn hiệu
lực như một ẩn dụ và xem như ẩn dụ chết, nhưng nó vẫn có thể được dùng
trở lại với tính cách sống động của nó.
Có thể lấy ví dụ từ một đoạn thơ của Tô Thùy Yên để hiểu rõ hình thức ẩn dụ này:
Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này
(Tô Thùy Yên)
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này
(Tô Thùy Yên)
Đoạn
thơ hầu như sử dụng lại những ẩn dụ khá cũ càng (lá rơi về cội, bếp lửa
nhân quần, rượu hồng, cuộc biển dâu), nhưng do cấu trúc mới mẻ, nên tất
cả như được hồi sinh và hồi sinh dưới một hình thức mới.
Với cách hiểu này, ta nhận thấy rằng ẩn dụ tự nó
không mòn(và cũng không chết/ẩn dụ chết). Cái mòn, cái chết là do cách
sử dụng. Ví dụ:
Anh ơi, đừng vội bóp nát trái tim em, đừng gian dối tình em nghe anh.
Câu hát chứa đầy ẩn dụ, nhưng nghe sáo rỗng, màu mè và chẳng ẩn dụ tí nào!
Giả tá được định nghĩa như là “cách dùng không đúng
cách của một từ” (improper use of a word), nghĩa là dùng chữ để diễn tả
một điều không có nghĩa trong ngôn ngữ đương dùng. Thông thường nhất,
người ta dùng một bộ phần nào đó của cơ thể (đầu, chân, tay, miệng,
cổ…) để nói về các phần của sự vật. Ví dụ như: chân bàn (leg of a table), đầu kim (head of a pin), chân núi (foot of a mountain), chân trời, miệng chén… Ngoài ra, người ta còn dùng sự vật này để nói về sự vật khác: cạnh đáy (một tam giác), cửa
sông (phần con sông tiếp giáp với biển/nơi nước sông bắt đầu đổ ra
biển). Theo Fontanier, “catachresis” cũng là một loại chuyển nghĩa (tức
là dụ pháp) nhưng là chuyển nghĩa ép (forcé).
Lý do là vì ở đây, không có sự chọn lựa một từ nghĩa bóng thay cho một
từ nghĩa đen, do đó, không phải là ẩn dụ. Chính vì thế, hình thức giả
tá, nếu được xử dụng như những ví dụ về ẩn dụ, lại không cho ta cảm
giác như đó là ẩn dụ.
Max Black xem giả tá là cách dùng một chữ trong một
nghĩa mới nhằm bù vào sự thiếu hụt trong từ vựng, nghĩa là nhằm lấp đầy
cái được gọi là “khoảng trống ngữ nghĩa” (lacune sémantique).
Thực
ra, ta có thể dùng hình thức ẩn dụ số 4, ví dụ c trong cách phân loại
ẩn dụ của Aristotle để giải thích các ví dụ về hình thức giả tá nêu
trên. Xin nêu trở lại cách mà Umberto Eco áp dụng hình thức ẩn dụ số 4
đưa ra trong phần đầu tiên của bài viết này để giải thích cách hình
thành “giả tá”:
- Chân núi: ví cái chân đối với con người tương tự phần phía dưới (chưa có tên) của hòn núi.
- Miệng giếng: ví cái miệng đối với con người tương tự như phần phía trên (chưa có tên) của cái giếng.
- Cửa sông (biển): ví cái cửa đối với ngôi nhà tương tự như phần phía cuối sông (chưa có tên) nơi nước đổ ra biển.
- Cạnh đáy: ví đáy của một cái chai tương tự như cạnh nằm ngang phía dưới (chưa có tên) của một tam giác.
Hiểu như thế, thì giả tá là một hình thức ẩn dụ như mọi ẩn dụ bình thường khác: mái tình, phiến buồn….
· Ẩn dụ điển tích (allusion)
Điển tích hay điển cố có nghĩa là chuyện hay sự
kiện được chép trong kinh sách cũ. Ở đây tôi tạm dùng chữ điển tích với
nghĩa rộng hơn để dịch chữ allusion là một loại ẩn dụ qua đó,
những nhân vật, nơi chốn, các sự kiện xảy ra, có thật trong đời sống
hay hư cấu trong tác phẩm văn chương, nghệ thuật được sử dụng như là
yếu tố làm ẩn dụ. Ngô Tự Lập, trong bài “Điển tích và sự mở rộng khái niệm điển tích [vii]
còn đi xa hơn: “Khi nói đến điển tích, ta thường nghĩ đến một câu
chuyện hay sự kiện, nhưng thực ra mỗi thành ngữ cũng là một điển tích.
Đằng sau những thành ngữ như “ba chân bốn cẳng”, “con ông cháu cha”,
hay “thượng
cẳng chân hạ cẳng tay”… rất có thể đã từng có một câu chuyện nay đã
thất truyền, nhưng ngay cả những thành ngữ như “mắt ốc nhồi”, “đồ mặt
mo”…cũng dẫn chiếu đến một ký ức chung, cái gọi là “nghĩa” của thành
ngữ.
Truyện Kiều hay Cung Oán Ngâm Khúc,
chẳng hạn, chứa đựng rất nhiều ẩn dụ điển tích. Và ngược lại, những
nhân vật trong Kiều như Sở Khanh hay Tú Bà…hay những nhân vật trong
“Chí Phèo” của Nam Cao như Chí Phèo, Thị Nở cũng được sử dụng làm ẩn dụ
điển tích trong văn chương về sau. Tựa đề câu chuyện hay một câu nói
của nhân vật trong truyện, có khi cũng trở thành ẩn dụ điển tích: Biết rồi, khổ lắm nói mãi, anh phải sống, chuyện thường ngày ở huyện… Gần đây nhất, những biến cố chính trị hay sự kiện xã hội cũng là những ẩn dụ điển tích: Arab spring [viii], cách mạng hoa lài.
Ví dụ: Với bộ máy kềm kẹp của nhà nước Cộng Sản, Arab Spring (hay cách mạng hoa lài) không dễ dàng diễn ra ở Trung Quốc.
Chú thích:
[i] Tham khảo ở trang mạng “Changingminds,” http://changingminds.org/ techniques/language/metaphor/ metaphor.htm
[iii]
Thực ra, đối với tác giả, cái tưởng là vô nghĩa (trên văn bản) bao giờ
cũng đầy ý nghĩa. Xin đọc một trích đoạn đề cập đến bài hát “Dấu chân
địa đàng” sau đây: “Hình ảnh “dạ lan” được nhắc tới trong ca khúc “Dấu chân địa đàng”: “Nửa đêm đó lời ca dạ lan như ngại ngùng”. Ca khúc này còn có tên là “Tiếng hát dạ lan”.
Nhà Dao Anh (cách nhà Trịnh Công Sơn một cây cầu là cầu Phú Cam) trồng
nhiều hoa dạ lan và loài hoa này không chỉ thơm ngát trong vườn nhà Dao
Ánh mà còn lừng hương trong nhạc Trịnh và trong nhiều bức thư tình tha
thiết, da diết của Trịnh Công Sơn gửi Dao Ánh: “Dạ lan giờ này chắc đã ngạt ngào cả một vùng tối đó
rồi, đã cài lên từng sợi tóc của Ánh” (thư Blao, 31.12.1964), “Anh
ao ước bây giờ mở cửa ra bỗng dưng có chiếc cầu bắc qua dòng sông và
anh bước qua cầu rồi rẽ về phía tay phải đi đến căn nhà có mùi thơm dạ
lan và đứng đó gọi tên Ánh thật thầm để chỉ vừa đủ Ánh nghe” (thư Blao, 26.9.1965).
Cũng trong ca khúc “Dấu chân địa đàng”, bên cạnh hình ảnh “dạ lan” là hình ảnh “loài sâu” được nhắc đi nhắc lại với nhiều trạng thái như ngủ: “Mùa xanh lá loài sâu ngủ quên trong tóc chiều”, ca hát: “Vùng u tối loài sâu hát lên khúc ca cuối cùng”, giải thoát ưu phiền: “Rồi từ đó loài sâu nửa đêm quên đi ưu phiền”.
Loài sâu này chính là một phiên bản khác của phận người, ôm chứa những
buồn vui của nhân sinh, điều này càng được thấy rõ hơn trong những bức
thư của Trịnh Công Sơn gửi Dao Ánh: “Ngôn ngữ đã mất đi với những ngày nằm co như một loài – sâu – chiếu ở Blao” (thư Đà Lạt, 19.9.1964), “Ở đây cũng có loài sâu đất reo đêm” (thư Đà Lạt, 19.9.1964),
“Đêm sáng mờ bên ngoài. Sâu đất reo rất trong ở bãi cỏ” (thư Blao, 23.10.1964), “Đêm đã lạnh và đã buồn. Cây cỏ lao xao. Anh chỉ còn nghe rõ tiếng sâu đất và tiếng dế reo… ” (thư Blao, 29.12.1964), “Đêm rất dày đen. Sâu đất của núi rừng cũng đã reo lên âm thanh rất nhọn” (thư Blao, 23.9.1965), http://tapchisonghuong.com.vn/ tap-chi/c247/n8824/Thu-tinh- gui-mot-nguoi-cuon-sach-giai- ma-ca-tu-va-soi-chieu-con- nguoi-Trinh-Cong-Son.html
[iv] Lakoff, “More Than Cool Reason, ” (University of Chicago Press, 1989) tr. 138. Quan điểm này sẽ được trình bày chi tiết ở bài “Ẩn dụ và ý niệm.”
[v]
A newly invented metaphor assists thought by evoking a visual image,
while on the other hand a metaphor which is technically “dead” (e.g.,
iron resolution) has in effect reverted to being an ordinary word and
can generally be used without loss of vividness. But in between these
two classes there is a huge dump of worn-out metaphors which have lost
all evocative power and are merely used because they save people the
trouble of inventing phrases for themselves, https://www.mtholyoke.edu/ acad/intrel/orwell46.htm .
[viii]
Còn được gọi là Arab Revolution (Cách mạng Á Rập) hay cách mạng hoa
lài: chỉ những làn sóng nổi dậy cách mạng của nhân dân diễn ra trong
các nước Á Rập (Tunisia, Ai Cập, Lybia) bắt đầu từ ngày 18/10/2012 tại
Tunisia, nơi hoa lài tượng trưng cho đất nước này.
Source Internet.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.