Trạng Trình Nguyễn
Bỉnh Khiêm (1491 bis 1585) sinh năm Tân hợi đời vua Lê Thánh Tông Hồng Ðức thứ
22 tại làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã
Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng) Thân phụ của ông là giám sinh Nguyễn Văn
Định, nổi tiếng hay chữ nhưng chưa hiển đạt trong đường khoa cử. Thân mẫu là bà
Nhữ Thị Thục, con gái út của Thượng thư bộ hộ Nhữ Văn Lan triều Lê Thánh Tông.
Quê ông ở làng An Tử Hạ, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay là
thôn Nam Tử, xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng.
Theo tài liệu để
lại bà Nhữ Thị Thục là bậc nữ lưu tài hoa giỏi văn chương và tài học về lý số.
Biết trước những gì có thể xảy ra và mộng lớn con cái nên danh phận. Nguyễn Bỉnh
Khiêm lúc trẻ học với Lương Ðắc Bằng từng là đại thần giữ chức Thượng thư dưới
triều Lê sơ, ông dâng những điều trần nhằm ổn định triều chính không được vua Lê
thi hành, Lương Đắc Bằng cáo quan về quê sống đời dạy học (1509). Nguyễn Bỉnh
Khiêm thông minh chăm chỉ trở thành học trò xuất sắc. Bởi vậy trước khi qua đời,
Bảng nhãn Lương Đắc Bằng trao cho Nguyễn Bỉnh Khiêm bộ sách quý về Dịch học (Chu
Dịch) là Thái Ất thần kinh, từ đó ông tinh thông về lý học và tướng số, nghiên
cứu về lý số với thiên tài “thần thông” có khả năng siêu quần, quán chúng về
thấu thị, thần giao cách cảm, Nguyễn Bỉnh Khiêm bỏ qua 9 kỳ đại khoa (trong đó
có 6 khoa thi dưới triều Lê sơ). Ngay cả khi nhà Mạc lên thay nhà Lê sơ (1527),
xã hội dần đi vào ổn định nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng không vội vã ra ứng thí
(ông không tham dự 2 khoa thi đầu tiên dưới triều Mạc). Tới năm Đại Chính thứ
sáu (1535) đời Mạc Thái Tông (Mạc Đăng Doanh) thịnh trị vương đạo nhất triều Mạc
(1527-1592), ông quyết định đi thi và đậu ngay Trạng Nguyên. Năm ấy ông đã 45
tuổi. được bổ nhiệm làm Đông Các hiệu thư rồi sau giữ nhiều chức vụ khác nhau
như Tả Thị Lang Bộ Hình, Tả Thị Lang Bộ Lại, kiêm Đông Các Đại Học, làm quan
được 8 năm, ông dâng sớ hạch tội 18 lộng thần vua không nghe. Ông cáo quan năm
1542 về vườn, lập Bạch Vân Am và hiệu Bạch Vân Cư Sĩ mở trường dạy học cạnh sông
Hàn Giang còn có tên Tuyết Giang, các môn sinh tôn ông là “Tuyết Giang phu tử”.
môn sinh của ông có nhiều người hiển đạt sau này như Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu
Khánh, Trương Thời Cử, Đinh Thời Trung, Hàn Giang cư sĩ Nguyễn Văn Chính (con
trai cả của ông)… thơ Trạng Trình với triết lý của Thái Ất là nguồn tri thức
hữu thể, về đời sống nhân sinh với càng khôn trong vũ trụ. Thái Ất
còn gọi là Lý Thiên, Lý Địa và Lý nhân.
Ngư ông bất ngộ Ðào Nguyên khách
Khởi thức hưng vong thế cổ kim
Nhàn trung hoa thảo túc cung xuân
Tà dương độc lập đô vô sự
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao…
Dù Nguyễn Bỉnh Khiên không còn làm quan, nhưng vua Mạc Phúc Hải phong cho
ông tước Trình Nguyên Hầu vào năm Giáp thìn (1544), ngụ ý đề cao ông có công
khơi nguồn ngành lý học, sau đó được thăng chức Thượng Thư Bộ Lại, tước hiệu
Trình Quốc Công. Từ đó người đời gọi ông là Trạng Trình. Nhờ học phương pháp
tính theo Thái Ất, tiên đoán được biến cố trước và sau 500 năm. Người Trung Hoa
khen Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm “An Nam lý học hữu Trình Tuyền”. Tục
truyền rằng Năm Bính ngọ (1546) Mạc Phúc Hải mất truyền ngôi lại cho con Mạc
Phúc Nguyên mãi đến năm mậu thân (1548) vua Trang Tông mất, Trịnh Kiểm lập Thái
tử tên Duy Huyên lên ngôi tức Trung Tông được 8 năm thì mất không có con nối
nghiệp. Trịnh Kiểm muốn làm vua nhưng còn sợ dư luận, nên sai người đến Hải
Dương hỏi ý khiến Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. ông không chỉ bảo người giúp
việc ngụ ý: “năm nay mất mùa, thóc giống không tốt, chúng mày nên tìm giống
cũ mà gieo mạ, gữi chùa thờ Phật thì ăn oản.. “ Sau đó Trịnh Kiểm tìm con
cháu họ Lê lên làm vua.
Dù Trạng Trình ở ẩn, vua Mạc cũng như các chúa Trịnh, chúa Nguyễn có việc
hệ trọng vẫn cho người đến hỏi ý ông. Ông thường kín đáo khuyên Vua cố gắng
tránh chiến tranh để nhân dân khỏi chết chóc. Trong năm Quang Thiêu (Lê Chiêu
Tôn) có việc biến loạn, Nguyễn Bỉnh Khiêm không muốn tiếng tăm với đời lúc bấy
giờ Trịnh Tuy, Mạc Ðăng Dung cũng cố ý muốn tranh quyền, đánh nhau mấy năm dài.
Ông tính số Thái Ất, biết nhà Lê lại khôi phục được và làm bài thơ:
Non sông nào phải buổi bình thời
Thú đánh nhau chi khéo nực cười
Cá vực, chim rừng, ai khiến đuổỉ
Núi xương sông tuyết, thảm đầy vơi
Ngựa phi chắc có hồi quay cổ (1)
Thú dữ nên phòng lúc cắn người (2)
Ngán ngẫm việc đời chi nói nữa
Bên đầm say hát, nhởn nhơ chơi
Sau khi nhà Lê bị Mạc Đăng Dung (1483-1541) chiếm ngôi, con của vị tướng
triều Lê là Nguyễn Hoàng Dụ trốn sang Lào, được vua Lào cho nương náu ở xứ Cẩm
Châu, trấn Nam Phủ, tỉnh Thanh Hóa. Năm Quý Tỵ (1532) Nguyễn Kim lập con út vua
Chiêu Tông lên làm vua, gọi là Trang Tông. Để mưu đồ đại sự, Nguyễn Kim
(1467-1545) thu nạp kiện tướng ở tỉnh Thanh Hóa là Trịnh Kiểm, sau là rể của
Nguyễn Kim. Năm Canh Tý (1540), Nguyễn Kim đem quân đánh chiếm Nghệ An và thu
phục luôn cả Thanh Hóa. Nhưng bỗng dưng Nguyễn Kim chết vì ngộ độc (1545), mọi
bình quyền về tay Trịnh Kiểm. Việt Nam lúc bấy giờ bị chia đôi: từ Sơn Nam trở
ra thuộc nhà Mạc, gọi là Bắc Triều. Từ Thanh Hóa trở vào là khu vực của nhà Lê
hay gọi là Nam Triều.
Nguyễn Kim mất, để lại hai người con trai là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng
(1525-1613) cả hai tuy còn ít tuổi nhưng đã bộc lộ tài năng xuất sắc hơn người.
Trịnh Kiểm lo sợ cả hai sau này có thể tranh giành địa vị với mình, nên ngấm
ngầm ngăn trở dù Nguyễn Uông chỉ mắc một lỗi nhỏ, Trịnh Kiểm cũng buộc Nguyễn
Uông phải chịu phép gia hình. Nguyễn Hoàng thấy anh bị hại, sợ đến lượt mình,
liền cử người kín đáo lên hỏi Trạng Trình. Trạng không trả lời cụ thể, chỉ đứng
ngắm đàn kiến bò trên hòn non bộ trước sân nhà và nói một câu:
Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân.
Nghĩa là từ núi đèo ngang ở Quảng Bình kia có thể yên thân được muôn đời.
Từ câu nói đó, Nguyễn Hoàng nghiệm ra rằng trạng Trình bày cho kế đi vào phương
Nam lập nghiệp. Từ năm 1558 Nguyễn Hoàng vội vàng đến nói riêng với chị là bà
Ngọc Bảo xin Trịnh Kiểm cho vào trấn phiá Nam, năm Mậu ngọ (1558) đời vua Anh
Tông Trịnh Kiểm tâu vua cho Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hóa, phía Nam dãy
Hoành Sơn. Nhờ thế mà lập nên cơ nghiệp của họ Nguyễn ở Đàng Trong, truyền nối
lâu dài.
Nguyễn Hoàng là người khôn ngoan, có lòng nhân đức thu dụng hào kiệt giúp
dân cho nên được lòng dân kính phục. Trấn giữ đất Thuận Hóa, mở đầu cho triều
đình nhà Nguyễn từ từ khai phá cho đến vùng đồng bằng sông Cửu Long ngày nay.
Ngoài ra rất nhiều lời sấm được lưu truyền qua dân gian nhiều lời bàn diễn giải
khác nhau như câu: ” Cẩu vĩtrư đầu, xuất thánh nhân ” ứng nghiệm
vào việc vua Gia Long lên ngôi từ (1802-1819) thống nhất sơn hà vào năm Nhâm
tuất ngày 02-05-1802. trải qua 13 triều đại. Hoàng đế cuối cùng Bảo Ðại trị vì
từ 1929 và thoái vị năm 1945.
Tương truyền Trạng Trình nói trước nhà Mạc suy vong, ông đọc hai câu thơ:
“Cao Bằng tàng tại- tam đại tồn cô” (nghĩa rằng rút về đất Cao Bằng thì
sẽ sống thêm được ba đời nữa) con cháu họ Mạc về đất Cao bằng tuy nhỏ nhưng được
3 đời là Mạc Kính Cung, Mạc Kinh Khoan và Mạc Kinh Vũ. Dòng dõi họ Mạc bị bắt,
bị giết nhiều người đổi họ lưu lạc khắp nơi để mưu cầu sự sống.
Trạng Trình có 3 người vợ và 12 người con (7 trai 5 gái) các con trai đều
có chức tước sau nầy. Ông mất ngày 28 tháng 11 năm Đinh dậu, niên hiệu Diên
Thành thứ 8 nhà Mạc (1585) hưởng thọ 94 tuổi. Theo sử sách Trạng trình Nguyễn
Bỉnh Khiêm là người có công lớn đối với triều đình nhà Mạc nên sau khi mất
(1585) vua Mạc Mậu Hợp ứng cử Ứng Vương Mạc Đôn Nhượng, phụ chính triều đình làm
khâm sai cùng với văn võ bá quan về dự lễ tang. Tháng Giêng năm sau (1586), vua
Mạc ban cho làng Trung Am 3.000 quan tiền để lập đền thờ ông và cấp 100 mẫu
ruộng để lấy hoa lợi dùng vào việc thờ cúng. Đền thờ được dựng trên nền Giảng
học – Am Bạch Vân và tự tay nhà vua đề biển ngạch: “Mạc Triều Trạng Nguyên Tể
Tướng Từ” (Đền thờ Tể tướng Trạng nguyên Triều Mạc). Trải qua những biến cố
lịch sử ngôi đền được trùng tu, xây dựng lại nhiều lần vào các năm: Vĩnh Hựu
nguyên niên (Ất Mão 1735, đời vua Lê Ý Tông); Minh Mạng thập tứ (1833). Ngôi đền
hiện nay được dựng lại vào năm Mậu Thìn (1928) đời vua Bảo Đại. Đến năm 1985,
nhân kỷ niệm 400 năm ngày mất của ông, một lần nữa đền lại được trùng tu làm
thêm nhà khách, hồ nước, cổng đền, tường bao, đường vào đền…
Trước khi qua đời, Trạng trình có ghi vào gia phả và dặn con cháu rằng:
Bình sinh ta có tấm bia đá sẵn và đã sơn kia. Khi ta mất rồi, hễ hạ quan tài
xuống phải để tấm bia đá ấy lên nắp rồi lấp đất. Chờ khi nào có khách tới viếng
mộ và nói rằng: “Thánh nhân mắt mù” thì phải lập tức mời người ấy vào
nhà, yêu cầu họ đổi hướng lại ngôi mộ cho ta. Nếu trái lời ta, dòng dõi về sau
sẽ suy đồi lụn bại đấy. Con cháu nghe lời, làm y như đã dặn. Nhưng chờ mãi đến
năm mươi năm sau, mới có người khách đến nhìn mộ cụ một lúc rồi nói: Cái huyệt ở
đằng chân sờ sờ thế kia mà không biết, lại tự đem để mả thế này. Vậy mà thánh
nhân gì chớ, hoạ chăng là thánh nhân mắt mù. Người trong họ nghe được, chạy về
báo với trưởng tộc. Ông này vội vàng ra đón người khách Tàu kia về nhà, xin để
xoay ngôi mộ kia lại. Ra đó là một nhà phong thuỷ (Feng Shui) trứ danh ở phương
Bắc. Ông ta sang là để đi tìm xem di tích của Trạng, bấy lâu ông ta đã nghe
tiếng đồn. Khi nghe vị trưởng tộc nói, ông ta sẵn lòng làm ngay, và tự đắc cho
rằng mình giỏi hơn Trạng Trình. Ông ta bảo: Không cần phải đem đi đâu xa cả, chỉ
đào lên rồi xoay lại, nhích đi một chút là được. Ông trưởng tộc bèn tụ họp con
cháu lại, đưa thầy địa lý Tàu ra đổi lại ngôi mộ. Lúc đào đến tấm bia đá, ông ta
làm lạ bảo đem rửa sạch xem những gì trên đó. Khi tấm bia được rửa sạch, mới
thấy mấy câu thơ hiện ra, tạm dịch nghĩa:
Ngày nay mạch lộn xuống chân
Năm mươi năm trước mạch dâng đằng đầu.
Biết gì những kẻ sinh sau?
Thánh nhân mắt có mù đâu bao giờ?
Đọc tới đâu vị khách Tàu phải khâm phục Trạng Trình mà ông ta nghe đồn là
giỏi thật. Năm 1930 Việt Nam Quốc Dân Ðảng lãnh tụ Nguyễn Thái Học (1901-1930)
lãnh đạo cuộc tổng khởi nghiã ngày 10.2.1930 đánh Tây ở các tỉnh: Yên Bái, Hưng
Hóa, Lâm Thao, Hải Dương, Kiến An. Thất bại bị Pháp điên cuồng ném bom tàn phá
làng Bảo An để trả thù. Có lời đồn Trạng Trình đã tiên đoán:
Kìa kìa gió thổi lá rung cây
Rung Bắc rung Nam rung tới Tây
Tan tác kiến
kiều an
đất nước
Xác xơ cổ
thụ sạch am
cây
Lâm
giang nổi gió mù thao
cát
Hưng
địa tràn dâng hóa
nước đầy
Một ngựa một yên
ai sùng bái
Nhắn tin nhà vĩnh
bảo cho hay „
Thoát nạn sập nhà
Trạng Trình giao cho con cháu một ống tre sơn son thếp vàng, bịt kín hai
đầu, và dặn đúng năm tháng ấy, ngày giờ ấy, phải để cái ống ấy vào kiệu rước lên
dinh Thống đốc Hải Dương, trao cái ống này cho quan thì sẽ cứu được tình thế gia
đình. Khi Trạng mất, hằng trăm năm sau, con cháu Trạng lâm vào cảnh đói nghèo,
sa sút, nhưng tuyệt đối không được mở ống ra xem trước thời hạn. Trạng còn dặn
kỹ trừ quan Tổng đốc ra, không ai được mở ống, vì thế ống vẫn giữ nguyên vẹn.
Trải qua bảy đời, cái ống tre ấy mới được rước lên dinh quan Tổng đốc, đúng ngày
giờ đã ghi trong gia phả. Đang nằm nghỉ, nghe tin con cháu cụ Trạng mang thư đến
gặp, quan Tổng đốc rất ngạc nhiên, không biết vì cớ gì, nên truyền cho vào, đồng
thời quan ngồi dậy để đi ra cửa.
Quan Tổng đốc vừa bước khỏi giường nằm được mấy bước thì bỗng rầm một
cái, chiếc sà nhà không biết bị mọt ăn hỏng từ bao giờ, rơi ngay xuống chỗ
giường vừa nằm. Thật là một phen hú vía! Nếu ông không kịp ngồi dậy nhận thư
Trạng, thì mạng ông đã khó mà sinh tồn. Quan Tổng đốc mở ống tre ra xem, thấy
bên trong có một cuộn giấy, đề hai câu thơ:
Ngã giải nhĩ thượng lương chi ách,
Nhĩ cứu ngã tử tôn chi bần
Nghiã là
Cứu người thoát nạn đổ nhà,
Ngươi nên cứu cháu con ta khỏi nghèo
Chưa hết kinh hoàng vì chuyện chiếc sà nhà vừa rơi xuống, ông thoát nạn
nhờ ra lấy lá thư. Quan Tổng đốc biết rằng Trạng Trình cứu ông thoát chết, nên
ông ta ân cần mời cháu Trạng Trình về tư thất đãi hậu hỹ, sau đó đưa ra rất
nhiều tiền giúp khỏi cảnh nghèo đói.
Nguyễn Công Trứ (1778-1858) phá đền
Năm Minh Mạng (1791-1840) năm thứ 14, Nguyễn Công Trứ được vua điều đi
khẩn hoang ở vùng Hải Dương, Nguyễn Công Trứ thấy địa thế cần phải đào con sông,
đào sông thì phải phá đền thờ Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông ra lệnh cho dân
phu phá đền để khai phá công trường. Khi sai người đào mang bát hương ra, Nguyễn
Công Trứ chợt thấy dưới bát hương có một tấm bia đá nhỏ phủ vải điều. Nguyễn
Công Trứ lau sạch đọc được các câu đã ghi:
Minh Mạng thập tứ
Thằng Trứ phá đền
Phá đền phải làm đền
Nào ai đụng đến doanh điền nhà bay
Nguyễn Công Trứ lập tức viết sớ về kinh, xin bãi bỏ lệnh phá đền. Ông còn
cho người sửa sang lại đền Trạng Trình khang trang hơn. Từ đó ông không còn nghĩ
đến việc phá đền để đào sông nữa.
Cha con thằng Khả
Tục truyền trong làng có cha con ông Khả đi bắt dế (chuột) kiếm sống. Khi
đến bên mộ Trạng, hai cha con vướng víu thế nào lại làm đổ tấm bia trên mộ. Dân
làng rất sùng kính Trạng Trình, nên khi thấy bia mộ bị đổ, họ nổi giận bắt cả
hai cha con, kêu nộp phạt ba quan tiền mới tha, vì khi tấm bia đổ xuống thấy có
hàng chữ ở sau:
Cha con thằng Khả.
Đánh ngã bia tao
Làng xóm xôn xao
Bắt đền quan tám
Cha con ông Khả chịu nộp phạt, nhưng dân làng phải tha cha con về nhà
chạy tiền. chỉ tìm được có một quan tám, dân làng không chịu, cha con ông Khả
ngẫm nghĩ phải nói với dân làng: Cha con tôi bị Trạng Trình bắt phạt có quan
tám, “Tam quán” nói lái lại thành quan tám.
Thời gian và thế sự xoay vần
Chuột sa chỉnh gạo nằm chơi
Trâu cày ngốc lại chào đời bước ra
Hùm gầm khắp nẽo gần xa
Mèo kêu rợn tiếng quỷ ma tơi bời
Rồng bay năm vẽ sáng ngời
Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng
Ngựa hồng qủy mới nhăn răng.
Trâu cày ngốc lại chào đời bước ra
Hùm gầm khắp nẽo gần xa
Mèo kêu rợn tiếng quỷ ma tơi bời
Rồng bay năm vẽ sáng ngời
Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng
Ngựa hồng qủy mới nhăn răng.
Những điều tiên đoán trên, liên quan với hiện tình đất nước Việt Nam. Hy
vọng năm 2013 Qúy Tỵ cầm tinh con rắn Việt Nam bước vào giai đoạn lịch sử mới mẻ
hơn, người dân biết những gì xảy ra tại các nước khác, giới trẻ ra nước ngoài
học và trở về. Tôi hy vọng toàn dân cùng đoàn kết hổ trợ và tiếp tay với những
người yêu nước giải thể đảng CSVN để canh tân đất nước đem lại tự do, dân chủ
đưa VN đến phú cường và thịnh vượng. Đảng cộng sản Việt Nam hãy thức dậy! mở to
đôi mắt nhìn xa hơn, bài học lớn nhất trong lịch sử, Thiên đường cộng sản Liên
Sô (Soviet Union) sụp đổ kéo theo các nước trong các nước Đông Âu: Poland,
Romania, Hungary, Bulgaria, Czechoslovakia (Slovakia/ Slovenia) bỏ chế độ cộng
sản để có tự do, độc lập và nhân quyền được tôn trọng . Noi gương nước láng
giềng Miến Điện cởi mở, trả tự do cho những tù nhân chính trị, chấm dứt chính
sách đàn áp, kiểm duyệt truyền thông báo chí, cho bầu cử tự do…
Những người cầm quyền đã quá giàu rồi nên thức tỉnh để hưởng phúc, đừng
tham quyền cố vị, không có khả năng đưa đất nước phục hưng về kinh tế, chính trị
giữ vững bờ cõi nên từ chức cho người tài giỏi hơn lãnh đạo. Những nhà độc tài
giàu sang hàng trăm tỷ USD như Saddam Hussein, (Iraq) Gadhafi, (Lybia) N.
Ceausescu (Romania) người đời nguyền rủa và bị giết kéo xác trên đường phố như
một con chó, con cháu họ cũng bị giết hay bị tù tội, gia đình ly tán tài sản bị
tịch thu.
Thơ văn của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Kiêm còn lại hơn 100 bài trong bộ
Bạch Vân Thi Tập, được dịch ra chữ quốc ngữ, thơ mang nặng tình người, khuyên
người đời biết điều nhân nghĩa, ngoài ra còn một số giai thoại truyền tụng trong
nhân gian…và những lời sấm ký có giá trị. Đời sống của tiên sinh thật xứng đáng
với câu đối ở đền thờ tại Bạch Vân Am: “Kế tuyệt, phù suy Chư Cát Lượng – Tri
lai, tàng vãng Thiệu Nghiên Phu” (Nối được cái đã đứt, đỡ được cái đã suy
như Chư Cát Lượng. Tìm hiểu việc đã qua, dự đoán việc mai sau như Thiệu Nghiên
Phu). Nhà thờ ở huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng, có bức hoành phi đại tự ở chính giữa
có 4 chữ “An Nam lý học” từ câu “An Nam lý học hữu trình tuyền” có
nghĩa là am hiểu về lý học ở nước An Nam có Trình tuyền hầu (tước vị của Nguyễn
Bỉnh Khiêm), Đặc biệt có một số câu đối nói rõ chính kiến của ông về thế sự và
hậu thế ca ngợi công đức của ông.
Nguyễn Qúy Đại
1/ ứng nghiệm về sau nhà Lê khôi phục
2/ ứng nghiệm nhà Trịnh giữ nhà Lê
Tài liệu tham khảo
Việt Nam Sử lược: Trần Trọng Kim
Tự Ðiển nhân vật lịch sử: Nguyễn Quyết Thắng
Những câu chuyện lịch sử tập 3: Trần Gia Phụng
Thái Ất Thần Kinh nhà xuất bàn văn Hóa
Trang Wikipedia. hình trên
Internet
Source Internet.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.