Thứ Ba, 15 tháng 5, 2012

HAI NỀN VĂN HÓA


HAI NỀN VĂN HÓA



Kim Định

( Cơ cấu Việt Nho : Kim Ðịnh )



“ Văn hoá loài người có muôn sắc thái, nhưng khi xét tận căn cơ lại chia ra được hai nguồn đã được đổ khuôn tự xa xưa do hai trào sống: một là Du mục, hai là Nông nghiệp. Hai tiếng này phải hiểu cách rộng rãi: Du mục bao gồm những miền đất mênh mông tự Cận Ðông đến Viễn Ðông và ta sẽ gọi là Tây Bắc.

Còn Nông nghiệp tuy có nhiều nơi nhưng ở đây có ý chỉ những miền mênh mông đủ sức gây ảnh hưởng lâu dài vào văn hoá như miền bình nguyên Ba Thục, hay đồng bằng Hoàng Hà, Hoài Giang, Dương Tử giang. . . Ðây là hai miền để ấn tích sâu đậm trên văn hoá loài người nên chia thành hai luồng tư tưởng khác nhau, nhưng lâu ngày pha trộn vào nhau. Và tuy ngày nay không còn nền văn hoá nào thuần chất nông hay du, nhưng cần đơn giản hoá để có vài tiêu điểm giúp cho việc nghiên cứu được dễ dàng. Vậy nên chúng tôi tạm dùng hai nét đó để phân loại các nền văn hoá, miễn phải hiểu trên đại cương và cách co dãn uyển chuyển.

I.- Đời sống Du mục

Riêng về lối Du mục đã mang tính chất nước đôi, gắn yếu tố Du thuộc thời Săn với yếu tố Mục đã đi vào Nông nghiệp. Tuy nhiên nói về đại để thì du mục còn mang nhiều yếu tố thời săn lượm ( Civ. I . 36 ). Ở thời này việc săn lượm chưa là truyện giải trí hay tuỳ phụ như sau này, nhưng là vấn đề sinh sống, ngoài việc săn lượm không còn nghề nào khác. Vì thế để cho được sống tất phải đi săn. Ðã săn là có truyện đổ máu. Thế rồi sự kiện thường xuyên đó ngấm dần vào tiềm thức gây ra sự thích thú làm cho con vật hay tha nhân đau khổ ( Civ. I . 76 ). Tha nhân càng đau khổ càng sướng đó là căn do những hình khổ kéo dài: đốt bằng lửa bé, đóng đanh treo cho hấp hối cả mấy ngày, đóng cọc đít dựng ngồi lên nhưng không cho cọc đâm sâu lên bụng để thủng thẳng mà chết. . . Chính đó là căn do của sự tàn nhẫn đã trở nên dấu hiệu của giai đoạn du mục nên sau này khi đã bước vào văn minh phải lâu lắm con người mới bỏ dần đi được.

Thời du mục có thể coi như đoạn cuối cùng của săn hái nên còn mang yếu tố chung với săn hái: cũng ở lều cũng tôn thờ Tù trưởng đến cùng độ, rồi lại thêm bắt người làm nô lệ và đàn áp nông nghiệp để kiếm đồng cỏ ( Civ. I. 41 ). Vì thế chúng ta có thể dùng danh từ mục để chỉ thời tiền văn minh, rồi đến cửa văn minh là nông nghiệp.

II.- Đời sống Nông nghiệp

Nông nghiệp là cuộc cách mạng lớn nhất của con người đã xảy ra cách đây hàng chục ngàn năm, nó biến đổi toàn triệt đời sống và đưa ra một lối mới khác hẳn trước: lấy việc ưa thích nghệ thuật và đời sống dễ dãi thanh bình thế vào đời sống cam go và hiếu chiến ngày xưa.

III.- Sự giao thoa giữa hai trận tuyến

Do đó mà đã thành một thứ định luật trong lịch sử là Du mục thắng Nông nghiệp để rồi bị Nông nghiệp cải hóa, trở nên văn minh thuần phục, lúc ấy lại bị Du mục đợt mới đánh quỵ ( Civ.I. 308 ). Ðó là một sự kiện xẩy ra thường xuyên trong mọi nền văn minh, mọi thời đại:

* Người Doriens đuổi người Mycéens.

* Người Hyksos đuổi dân Ai Cập.

* Người Cro-magnon đuổi người Néanderthal.

Tức ở đâu và bao giờ cũng có sự xâm lăng, nên sự đối chọi giữa Du mục và Nông nghiệp là một tiêu điểm có giá trị phổ quát. Lấy đó mà nhìn vào nền văn hoá nước nhà chúng ta rất dễ nhận ra một phía ưa dùng bạo lực pháp hình, còn một bên thì ưa dùng những đường lối nhu thuận tìm cách cải hoá bằng lễ giáo thí dụ Nhu đạo phát xuất từ chữ Nhu, tức đi lối “ Khoan nhu dĩ giáo ”, nên kể là đại biểu cho nông nghiệp . Ðiều này ít được nhận ra vì Nho giáo đã hết chính truyền từ lúc những yếu tố du mục mọc trùm lên trên. Tuy nhiên nếu chịu khảo sâu thì cũng còn nhìn ra được sự nối kết đó, vì không bao giờ nét hàn xì đi đến cùng triệt, nhưng vẫn để lại dấu vết được biểu lộ qua cuộc vật lộn cam go giữa hai nền văn hoá. Có khi giao tranh ác liệt, có khi hoà hoạn ảnh hưởng lẫn vào nhau.

Lịch sử nhân loại chính là sự giao thoa của hai trận tuyến đó: Khi bên này thắng thế, lúc đên lượt bên kia, xoắn xuýt pha trộn khiến cho sự nhìn ra trở thành khó khăn nhưng lại cần thiết để có một quan niệm bớt mung lung về nguồn gốc văn hoá.

Muốn phân ra cần phải đi tới cơ cấu mới đạt những yếu tố tương đối đơn thuần để dễ p



IV.- Cơ cấu Du Nông



Ðiều nhận xét đầu tiên là bất cứ ở đâu thô bạo cũng thắng được tế vi ( Partout le délicat est vaincu par le grossier . Journal . Keyserling 169 ). Ðó là du mục khởi đầu thắng nông nghiệp. Tại sao vậy ? Thưa như đã nói vì nó dựa trên sức mạnh. Ðó là điều bó buộc trong thời săn hái. Muốn bảo tồn sinh mạng không những con người phải chống chọi thú vật, mà còn phải giết chúng để làm lương thực. Lâu ngày sự bạo hành đó quen đi, ngấm vào tiềm thức gây nên cơ cấu du mục, là cơ cấu xây bằng võ lực. Ðịa vực của du mục hầu hết là những cánh đồng hoang bát ngát nằm trong vùng Cận Ðông Tiểu Á lan tới vùng thảo nguyên bát ngát của Á Châu. Ðó là quê hương du mục với những đoàn người sống theo phương thức đoàn vật do một người chăn. Ờ đoàn người đi săn tâm thức cá nhân thiếu cơ hội nảy nở: người ta chỉ khuyến khích sự phục tòng tuyệt đối trước quyền uy của một Tù trưởng thường được thần thánh hoá để duy trì tinh thần hồn khóm , hầu trở nên đoàn quân hùng mạnh.

Và đó là điều giải nghĩa tại sao mỗi khi đụng chạm với nông nghiệp thì hầu hết là du mục thắng thế. Là vì phía nông nghiệp tuy cũng có kỷ luật, nhưng thường mền dẻo và nhất là còn để lại quảng trống rất rộng cho lối sống riêng rẽ từng gia tộc đầy tình cảm. Văn hoá lại khuyến khích lối sống “ Doãn chấp kỳ trung ”, như với Lễ Gia Quan là lễ vun tưới óc trách nhiệm cá nhân.

Ngược lại trong lối sống du mục đã không có sự khuyến khích như vậy. Hơn nữa lối sống chung đụng từng đám không để giờ cho những sự tư riêng vi tế nảy nở, nhưng cổ võ đời sống tập thể . Vì thế mà triết thuyết nghiêng về pháp hình và lý trí gạt bỏ tình cảm. Vật Tổ thì thích dùng các con mạnh thú như hùm, beo, hổ , báo. . . biểu thị bằng lông mao.

Trong lối tổ chức xã hội thì có đẳng cấp dựa trên dòng tộc hoặc giàu sang. Loại tâm thức này sẽ giữ vai trò văn minh chinh phục thiên nhiên, mở đầu khoa học, ưa số chẵn, số Ðất : 2, 4, 6, 8. Ngược lại bên phía nông nghiệp đề cao quan văn, đề cao đức độ . Vua chỉ có giá trị vì đức chứ không vì thế . Vật biểu là Tiên ( tức yếu tố nữ ) đi với Chim ( lông vũ ), tức vật hiền lành và biết bay cao. Xã hội không có đẳng cấp, nhưng nhấn mạnh trên tuổi tác và công thể, như Hội đồng kỳ mục tức không dành riêng cho một đẳng cấp nào. Cai trị bằng Lễ ( tục ) . Triết lý thỉ giàu tình cảm và nghệ thuật. Loại tâm thức này sẽ chuyên về văn hoá nhằm làm đẹp tình người, tô điểm cho những mối nhân luân bằng Lễ.

Tóm lại mà nói thì:

Cơ cấu Du mục chuyên về “ Văn minh “ tìm chinh phục thiên nhiên và trấn hai phương Tây Bắc 4 – 1.

Nông nghiệp nghiêng về “ Văn hoá “ tìm làm đẹp những mối nhân luân, trấn hai phương Ðông và Nam 3 – 2.



Sau đây là vài thí dụ điển hình:

V.- Đại biểu của hai nền Văn hóa

Hoàng Ðế đại biểu Du mục,Thần Nông đại biểu Nông nghiệp.



Ðã biết rằng cơ cấu thuộc tiềm thức không có đường viền rõ rệt. Vì thế khi chúng tôi đưa Hoàng Ðế ra làm đại biểu thì chỉ nên coi như một sơ nguyên tượng mà không là nhân vật lịch sử. Nói vậy nghĩa là những điều thuộc Hoàng Ðế có không đúng hẳn với lịch sử cũng không quan trọng.

Quan trọng là làm nổi bật lên vai trò Du mục y như Thần Nông là đại biểu cho Nông nghiệp vậy.

Si Vưu là con cháu Thần Nông đã phải chiến đấu với Hoàng Ðế thì hiểu là văn minh nông nghiệp phải chống với du mục. Nông nghiệp đi vào văn minh trước nên cháu Thần Nông chống với Du mục Hoàng Ðế.



Chữ Ðế mang ý nghĩa chinh phục hay là ăn sẵn: dùng võ lực để săn con thú, lưới con cá sẵn có đó rồi. Lối sống này sẽ đưa đến chinh phục, cướp đoạt, nói vắn là Ðế. Ban đầu Ðế có nghĩa là ăn sẵn, ăn cướp, tước đoạt nhưng vì do vua làm nên mang ý nghĩa tốt, theo thế thái ăn trộm cái lưỡi câu là thằng cướp, còn ăn trộm một nước thì lại là vua, và trong trường hợp sau này việc chinh phục được kêu là Ðế và chữ Ðế mất tính chất du côn để trở nên cao cả.

Vì thế nên gọi là Ðế theo nghĩa Ðế là chinh phục, chiếm đoạt. Ðế quốc là nước dùng sức mạnh để chiếm đoạt các nước khác.

Người được gọi là Ðế đầu tiên trong huyền sử Việt Nho là Hoàng Ðế, có nghĩa là người đã chiếm đoạt văn minh Hoàng tức của nông nghiệp: bao nhiêu phát kiến nông nghiệp đều quy cho mình, thí dụ “ Hoàng Ðế Nội kinh ” tuy bảo là của Hoàng Ðế mà thực ra là cuốn sách thâu lượm kinh nghiệm y dược của Thần Nông, đặt trên khung Âm Dương của Phục Hy. Như vậy Hoàng Ðế quả là đại biểu cho một nền văn hoá khác xây trên vũ lực về văn hoá, còn ở trên hai đợt bái vật và Ý hệ. Nếu biểu thị bái vật bằng số 1, còn ý hệ bằng số 4 ( 4 - 1 ) thì chúng ta sẽ thấy được du mục là nền văn hoá chú trọng đến hình thức ( là số 4 ), Ðịa phương cũng như sức mạnh đi theo đường khắc: Hoả ( 2 ) khắc Kim ( 4 ) , Kim khắc Mộc ( số 3 ) và choán hai phương Tây bắc với số phá, số chẵn. Ngược lại với văn hoá nông nghiệp ở Ðông Nam số lẻ, vì số lẻ là số hoá ưa chuộng uyển chuyển nhu thuận . Ta hãy xét thêm một điểm then chốt nữa là nhà cai trị của Tàu cũng thấy đến quá nửa là du mục. Toàn thể lịch sử Trung Quốc được dệt nên bằng những cuộc xâm lăng của du mục, khởi đầu mãi tự ngàn xưa, từ Hoàng Ðế dẫn đến nhà Chu, rồi đến nhà Tần, nhà Hán cả thảy hơn hai ngàn năm, sau này vẫn còn tiếp nối . Có thể chia sự tiếp nối đó ra làm hai đợt:



*Ðợt nhất gọi là xâm nhập gồm ba triều Bắc Nguỵ thuộc giòng Thát Bạt ( Topa ) từ năm 385 – 556 tức 170 năm.

*Ðợt hai kêu là chinh phục gồm 4 nhà :

Liêu 907 – 1125 ( 218 năm )

Kim 1165 – 1234 ( 165 năm )

Nguyên 1206 - 1326 ( 120 năm )

Thanh 1644 – 1911 ( 267 năm )

Cộng cả là 974 năm chinh phục nhập với 170 năm xâm nhập vị chi là 964 năm. Vo tròn lại là 1000 năm, cộng với 2000 năm trước nữa là 3000 năm, một nước bị Du mục thống trị đến 3000 năm như vậy, có nói Trung Quốc mang tính chất du mục quả là có nền tảng ngay trên phương diện sử .

VI.- Phân biệt Hán Nho và Nguyên Nho hay Việt Nho



Sau đây là một số nét khác biệt về Hán Nho và Việt Nho: Khi nói tới Việt Nho và Hán Nho là ta chỉ nói tới khía cạnh văn hoá, mà không nói tới chủng tộc hay chính trị . . .

Văn hoá mà ta đề cập tới là văn hoá Nông nghiệp và văn hoá Du mục.

Tính chất của văn hoá Du mục là bạo động, hiếu chiến, chiếm đoạt và bành trướng, trọng võ hơn văn , trọng lý hơn tình . . . Ðại diện nổi nhất là Hiên Viên Hoàng Ðế, Tần Thuỷ Hoàng, rồi tới các triều đại từ nhà Hán về sau.

Còn văn hoá Nông nghiệp thì nhu thuận ( Nho ) ưa hoà bình, trọng văn hơn võ, phù yểu nên trọng nữ, coi tình nặng hơn lý, bề ngoài là lý nhưng trong là tình . . . Thuỷ tổ của nền văn hoá này là Phục Hy làm ra Dịch tiên thiên, Nữ Oa nấu đá ngũ sắc, Thần Nông khai sáng nông nghiệp. Ðó là loạt Tổ đầu tiên lập ra Nho giáo, tức cũng là Việt Nho.

1 .- Chủ trương của Việt Nho

Chủ trương của Việt Nho là “ Thân thân “, nghĩa gần gủi là thân cận với tất cả. Ðây là tinh thần văn hóa nông nghiệp được xây dựng trên” Tình thâm “. Ðối với Vợ Chồng thì gọi là Mình, Nhà tôi, đối với Con cái thì gọi là Quý tử, đối với Cha Mẹ thì gọi là Dong thân nên không có khoảng cách thế hệ, Vua quan được gọi là Phu Mẫu chi Dân làm cho Vua Quan không có cách biệt với dân chúng. Cai trị dân theo phương châm Hiệt củ, nghĩa là yêu điều dân yêu, ghét điều dân ghét . Ðối với mọi người thì gọi là bà con cô bác . . . Mọi người đều lấy Nhân Nghĩa để đối xử với nhau .

2.- Chủ trương của Hán Nho

Chủ trương của Hán Nho là “ Tôn tôn “ nghĩa là đề cao cái uy thế của Vua lên mây xanh, tôn vua lên ngôi Thiên tử, vua ở trên hết và cách biệt với mọi người, người dân không được nhìn vào mặt vua, nếu không là mang tội phạm nhan. Về con người thì trọng Nam khinh Nữ ( nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô ). Cha mẹ được gọi là Nghiêm đường, nên giữa cha mẹ và con cái có sự cách biệt, đối với vua thì phải trung quân, vua bảo chết thì phải chết, nếu không chết là bất trung, và lấy Trung quân để đè bẹp chữ Hiếu. Vế cách cai trị thì chủ trương dùng người gian xảo: khiến dân thân với luật pháp, tránh dùng người hiền ( vương dụng thiện tắc dân thân kỳ thân, dụng gian tặc tắc dân thân kỳ chế . Thượng Ưởng . Need II 208 ). Cai trị dân theo phương pháp xích thốn, nghĩa là dùng thước tấc để đo người. Chính sách quản lý hộ khẩu, chế độ tem phiếu, ngũ gia liên báo đều bắt nguồn từ nguồn tư tưởng trên.

Nhà Chu đã đem vào Nho giáo mấy yếu tố sau:

a .- Luật hình .

b .- Hoạn quan.

c.- Quan niệm Thiên mệnh và quan niệm nước Tàu là trung tâm của thiên hạ ( Trung quốc : lại thêm đề cao tư tưởng dẫn tới thói thượng Lễ đời Hán . Creel 333, 337, 350, 352 ), trước đó chưa có quan niệm này, vì nhà Thương cũng chỉ mới rộng chừng 115 000 cây số vuông 9 Creel 131 ).

d .- Sự chuyển biến tư sản làng xã sang tư sản phong kiến ( Need . II 1056 ), mà Eberhard gọi là giai cấp quý tộc ( Gentry ), và kêu là bách tính để phân biệt với lê dân ( dân tóc đen khác với dân tóc vàng từ Tây Bắc qua ) , ( Eberhard 27 ). Bốn yếu tố đó có tính cách du mục, nặng về lý trí đem lại sự minh bạch. Vì thế nhà Chu kể là có công đặt để một khuôn mẫu cho nền văn hoá Việt Nho chưa thành hình rõ rệt ở hai đời trước, mà các học giả gọi là thời lên men của ý tưởng ( Creel 209 ).

Nhưng rồi tính chất du mục hiện rõ từ nhà Chu, sẽ được phát triển tột độ ở nhà Tần, rồi truyền qua nhà Hán để in dấu rõ rệt trên nền văn hoá nước Tàu.

Mặc dầu nhà Chu ngay tự buổi đầu đã xưng mình thuộc dòng nông nghiệp, nhưng các học giả vẫn gọi là văn hoá du mục ( nomadisme patriarcal hay pastoral, ngược với vegetal của Ðông Nam ( Need II 576 ) , tức khác hẳn với văn hoá phương Nam của Viêm Việt, luôn trung thành với các yếu tố nông nghiệp: nhu thuận, bình sản, tự do, ưa hồn nhiên, đột khởi hơn công ước, sính lễ, trọng tình cảm hơn lý trí. Vì thế đã trở thành hai khuynh hướng chống đối nhau xuyên qua 4000 năm lịch sử, mà ba chặng lớn có thể kể tới là Long Sơn, Ðông Chu và Tần Hán ( Arché. 444 ).

3 .- Giải nghĩa các hiện tượng

Do nhận xét trên mới giải nghĩa được các hiện tượng sau:

* .- Nếu bảo Nho là của Tàu, thì tại sao mấy triều đại chính của Tàu lại phá Nho mạnh nhất: nhà Chu tận diệt sách nhà Thương ( Need I 86 ), nhà Tần đốt sách chôn Nho, nhà Hán xuyên tạc Kinh văn. Sau này tuy nhận Nho nhưng vẫn còn lưu lại hai yếu tố phát xuất tự Tây Bắc là hoạn quan và pháp hình để kiểm soát Nho sĩ.

*Tại sao nước Việt Nam, thực tế là các làng mãi từ xa xưa luôn luôn trốn văn minh Tàu ? ( nhận xét của Paul Mus 334 ), thế mà hằng số của Nho gia lại nằm sâu trong lòng dân Việt Nam, còn sâu xa hơn cả bên Tàu.

Lý tưởng của Việt Nho là bảo vệ nền tự trị xã thôn với chế độ bình sản và tự do con người, ít ra theo chủ trương triết cũng như trên phương diện lễ tục. Xét về nội dung là một thứ liên bang tinh thần, nó đã được đỡ đầu bởi nhiều hiền triết như Thần Nông, Phục Hy, Nữ Oa, Nghiêu, Thuấn, Ðại Vũ . . . , tất cả những tên đó đều thuộc giai đoạn Viêm Việt, giai đoạn đã thành lập được nền văn minh nông nghiệp mà sau này mang tên là vương đạo.

Nhưng rồi với thời gian và sự thấu nhập của các làn xâm lăng từ Tây Bắc, nền văn hoá này đã bị lung lay, và từ cuối đời Xuân Thu mấy nước lớn như Tề, Tấn,Tống, Sở, Ngô, Việt, Tần tranh bá đồ vương không phải để làm sống lại tinh thần vương đạo, mà cốt để thôn tính các nước nhỏ cho tới khi toàn thắng để đặt nền thống trị toàn lãnh thổ ( H. Maspéro p.323 ). Tứ đó có gọi là Nho giáo cũng chỉ là mượn danh hiệu, vì chính đó là pháp gia, hình gia, chứ đâu còn là Nho là nhu, vừa có nghĩa là nhu yếu, vừa có nghĩa là đạo của nhu thuận, hiền hậu . Từ đời Hán về sau, thì nặng màu chính trị du mục mà thôi. Nên mỗi khi nói Việt Nho thì phải hiểu vào thời Xuân Thu trở về trước, còn từ thời Chiến Quốc về sau thì là thứ Nho khác ( xem câu chuyện nước Lỗ bắt được con Kỳ lân què chân trái ( tả nhậm ).”

VII.- Tiến trình từ Việt tới Nho

( Sứ điệp trống Ðồng : VII. Tiến trình từ Việt tới Nho. Tr. 57 – 219. Kim Ðịnh )

1 .- Biên cương và đặc thù của Việt

“ Chữ Việt ở đây xin được hiểu rất rộng bao gồm cả Việt Nam hiện đại lẫn Bách Việt, trước nữa là các dân đứng ngoài vòng lễ nghĩa nhà Chu ( theo định nghĩa của Lưu Hy đời Hán ) trên cùng là toàn thể khối dân sống trong nước Tàu trước lúc chưa có Tàu xét như một dân tộc riêng biệt. Ðó là khối dân mà khoa khảo cổ gần đây gọi là Mongoloids ( Pacific . 83 ), nhiều sách quen gọi là Nam Mông Cổ. Khối dân này đã lần lần lan ra khắp nước Tàu tràn xuống tận đến Mã Lai, Nam Dương vào quảng 2500 B.C, đẩy lui lớp người trước là Australoids ( Pacific . 83 ). Khối Mongoloids chia ra làm trăm chi tộc ( Eberhard cho là trên 800 ) với những tên gọi khác nhau, trong đó một số tên có tầm bao quát rộng, được dùng thay cho toàn khối như Tam Miêu, Cửu Lê, Cửu Di, Tứ Hải, Tứ Di, Bách Việt . . . Sở dĩ tôi đã chọn tên Việt để chỉ đại khối là đứng về mặt văn hoá tên này có tính cách bao gồm cao độ chỉ thị bằng chữ trăm ( Bách Việt ). So với những tên khác như Cửu Lê, Tam Miêu thì cao hơn.









Hình Phủ Việt



Ðã vậy chữ Việt với bộ Mễ chỉ nông nghiệp là nét nổi nhất chung cho toàn chủng. Thứ đến đó là tên duy nhất còn sót lại để chỉ Việt Nam. Thế mà Việt Nam lại có nhiều lý do để được coi như đại diện cho đại chủng xưa kia, vừa địa thế nước Việt là ngả ba đường cho các trào thiên di, nay còn lối 60 sắc dân thiểu số sống trong nước. Họ có thể coi là đại biểu cho các làn di dân đi qua Việt và có để ấn tích lại. Lẽ cuối cùng là đất Việt lại tàng chứa trống Ðồng loại I nhiều nhất, mà đó là điển chương tóm lược các nét văn hoá của đại chúng một cách chói chang. Tất nhiên mỗi chi có những dị biệt về phong tục, văn hoá, nghệ thuật, nhưng lại có những điểm đại đồng. Sau đây là mấy yếu tố coi được như mẫu số chung của cả đại chủng:

1 .- Nông nghiệp

2.- Tổ chức xã hội theo lối Thôn Làng, rồi đến Liên làng ( Tổng ) mà ngập ngừng lên đợt nhà nước .

3 .- Thờ Tổ tiên

4 .- Ðịa vị phụ nữ cao

5 .- Khi múa đeo lông chim

6 .- Xâm mình

7 .- Cài áo bên trái ( tứ Di tả nhậm )

8 .- Huyền thoại mang nét lưỡng hợp ( dual unit )

. . . . .

Ðó là mấy điểm lớn làm nên những dấu để nhận diện lại đại chủng Việt. Trong các yếu tố đó điểm cuối cùng nổi bật nhất vì nó là vũ trụ quan có tầm bao quát cùng cực, đã vậy lại kết tinh vào cặp Tiên, Rồng với tục đeo lông Chim, vẽ mình Rồng mà ta thấy hiện hình tưng bừng trên mặt trống, nên được dùng để định tính chủng Việt một cách trung thực hơn cả như sẽ bàn sau.

Ở đây ta hãy liếc nhìn khảo cổ để tìm ra một số nét chung ràng buộc toàn khối:

Trước hết lả thời Tân Thạch có loại rìu tứ diện ( chữ nhật ) tìm thấy cùng khắp phía Ðông thêm rìu có vai cũng tìm được khắp tự Sơn Ðông xuống tới Việt Nam.Sau là loại rìu đặc biệt loại cong cùng kiểu dáng vói Phủ Việt.

Kế tới đồ gốm có :
Loại Văn Thừng ( cord marked ) với kỷ thuật khắc vạch và đóng dấu ( incised and stamped ).

Ðồ gốm 3 chân có đầy ở Ðông Sơn, trên Ngưỡng Thiều và Long Sơn, nơi đây đặc biệt có cái lịch.

Văn xoáy ốc ngược kim đồng hồ do hình chim bay xuất hiện vì có chấm mắt ( Cradle . 362 ) .

Ðồ gốm Văn Thừng thấy xuất hiện sớm nhất bên Nhật năm 11 000 tr. c. n. Rồi tới thiên niên kỷ thứ 3 thì xuất hiện thời đại Ðồng Thau với những đỉnh, những tước đủ loại, mà tựu trung loại 3 chân 2 tai nổi bật lên. Bộ số 3 – 2 này còn thấy trong những cái qua tìm được ở mạn Nam Tàu cũng như Việt. Ðồ đồng xuất hiện ở Ðông Nam Á ( đã tìm được bên Thái ) lối 3000 năm tr.c. n., bên Tàu vào đầu nhà Hạ lối 2000 năm tr. c. n.

2 .- Nguồn gốc Tàu

Cũng chính vào quảng có đồ đồng này, mà nảy sinh một dân tộc mới, sau sẽ gọi là Tàu: đó là vài ba bộ lạc ở vùng núi Hoa trong tỉnh Thiểm Tây và Sơn Tây, tuy cũng là dân nông nghiệp nhưng ruộng khô, cây lúa gọi là thử là tắc, vì ở tiếp cận với du mục Bắc phương nên dần dần tạo nên một văn hoá mới có nhiều chất Du mục, tôi sẽ gọi là văn minh Du mục, còn chữ văn hoá ( nông nghiệp ) dành cho đại khối Việt ( Theo lối quyển Story of Civilization: văn hoá đi với nông nghiệp, văn minh đi với tỉnh thành . Civ. I . 2 ) . Nền văn minh du mục gồm mấy điểm khác biệt sau:

1.- Có vua và nhà nước

2.- Quân đội lớn và chuyên nghiệp

3 .- Thành thị xây tường lũy bao quanh

4 .- Pháp hình

5 .- Nghệ thuật đồ sộ, tách khỏi vật dụng: cung điện lớn lao, mồ mả đồ sộ

6 .- Chữ viết

7.- Xe ngựa . . .



Ðó là mấy nét lớn thường gắn bó với nhau, cái nọ đẻ ra cái kia: muốn có sức mạnh tất phải có quân đội thường trực ( chứ không tụ họp dân khi cần kiểu thánh Dóng: động vi binh tĩnh vi dân ). Ðã có quân đội mạnh tất phải có thủ lãnh đầy uy quyền nên nảy sinh ra pháp luật, chữ viết là những cái cần cho việc tập trung và kiểm soát. Uy quyền vua được biểu lộ bằng cung điện nguy nga, mồ mả to lớn, kèm với mỹ thuật vĩ đại, thường rời khỏi những nhu yếu đời sống thường ngày và mang theo kích thước đồ sộ . Thí dụ có cái đỉnh của Tàu nặng tới 875 ký đang khi các trống loại I chỉ lối vài ba chục ký.

Chính những điều này ( kích thước lớn lao, nghệ thuật chuyên biệt, cung điện đồ sộ . . . ) làm cho những nền nghệ thuật sáng chói được các nhà nghiên cứu trình bày cho thiên hạ chiêm ngưỡng, ca ngợi như những đỉnh cao chót vót của văn minh. Nhưng đến nay lác đác đã có những học giả nhận ra rằng những đỉnh văn minh đó cũng chính là thước đo sự trầm thống khổ lụy của đại chúng bị nô lệ hoá cho mỹ thuật kia được thành tựu, đến nỗi phải nhìn nhận rằng con đường dẫn đến đài văn minh cũng chính là con đường nô lệ hoá phần đông nhân loại.

Ðấy là lý do tại sao Việt tộc đã không chịu bước vào văn minh mà cứ muốn ở lại trong tình trạng văn hoá với chế độ liên làng, bộ tộc, vì đó là chế độ thuận hơn cho hạnh phúc con người, đến khi cùng chẳng được bó buộc phải bước vào văn minh thì cố duy trì những yếu tố văn hoá cổ sơ để làm ra một nền văn hoá đặc biệt gọi là Việt Nho như sẽ bàn sau.



Tuy nhiên chỉ có đặc biệt trong việc duy trì văn hoá chứ còn việc trốn né văn minh thì không cứ Việt tộc mà cả nhân loại cũng thế vì đó là trốn nô lệ nhưng không trốn được mà tất cả bị còng tay lôi vào nẻo văn minh. Sự việc này xảy ra đại loại như sau: Trên một hai bộ lạc nào đó xuất hiện một hai kẻ có đại tài, thế là bộ lạc đó được tổ chức mạnh, đủ sức đi chiếm đồng cỏ, chinh phục người về làm nô lệ, và cứ thế mà lớn mạnh trở nên đế quốc. Thế là mấy dân tộc lân cận cũng bó buộc trở nên mạnh, phải có quân đội, có vua, cũng như các yếu tố văn minh khác. Thế rồi những dân lân cận của những dân đã văn minh này nếu muốn bảo vệ đất đai cũng phải trở nên mạnh theo.

Thế là lần lượt toàn cầu phải đi vào văn minh để đủ sức đấu tranh mà sống còn với nước khác. Còn nội bộ thì đấu tranh với nhau, kẻ được làm chủ, kẻ thua làm nô, đó là đấu tranh giai cấp. Tôi gọi đó là tinh thần du mục và cho văn minh với tinh thần đó đi đôi .

Diễn tiến trên đã xảy ra khắp nơi từ Sumer bên Lưỡng Hà, qua Ai Cập cho tới Âu Châu, cũng như Siberia . . . lâu trước và đã đè bẹp hết mọi nền nông nghiệp đã xuất hiện khắp nơi. Về sau nó cũng đã xảy ra cho đại khối Việt vào cuối thiên niên kỷ thứ thứ ba hoặc đầu thứ hai, và lần lượt chinh phục các chi tộc của Việt tộc hoặc bằng đồng hoá, hoặc đẩy lui xuống phía Nam, nhưng khác với Lưỡng Hà và Âu Châu ở chỗ nền văn hóa đại chủng Việt quá lớn mạnh cả về tinh thần lẫn đất đai, vì thế nó đã không ngả qụy, mà còn cải hóa được phần nào văn minh du mục để làm nên cái gọi là Nho, và đến giai đoạn văn minh này thì Nho được công thức hoá, được chép ra văn tự, do vậy người ta đã đồng hoá Nho với Tàu, mà quên phần tinh thần, phần căn bản đã xuất hiện lâu đời trước khi chưa có dân tộc Tàu, chưa có chữ Nho.

Không còn ai phân ra rằng chính tinh thần, chính văn hoá mới là phần căn bản, chữ viết chỉ là phương tiện để ghi chép, nó không phải là tinh thần Nho, mà chính là tinh thần văn hoá Nông nghiệp, là tinh thần còn có mặt mạnh hơn ở những chi tộc Việt chưa có chữ Nho trong đó Lạc Việt là một, vì thế gọi là Việt Nho để phần gốc này khỏi bị lảng quên.

3 .- Nguyên Nho

Nho giáo là di sản chung của mấy nước Ðông Nam Á như Tàu, Nhật, Hàn, Việt . . . cho nên với Viễn Ðông chữ Nho là “ Văn trường chung ”. Khác nhau là văn trường đi sâu tận tâm hồn, còn thị trường thuộc vòng ngoài kinh tế . Như trên đã nói, tuy mọc lên từ gốc Việt nhưng về sau Nho được coi như một ngành riêng biệt bên ngoài Việt là do sự lép vế dần của Việt tộc. Sở dĩ như vậy vì văn hoá Việt tộc gặp một tình trạng thất lợi quá lớn: bị nằm ép giữa hai khối văn hoá khổng lồ là Ấn Ðộ và Trung Quốc ( Trung Quốc biểu thị bằng Vạn lý trường thành, Ấn Ðộ bằng Chiêm Thành Vạn tượng ) Việt Nam nằm giữa phải chịu trận cả hai đầu. Sự vụ này xảy ra về phía Bắc rõ nhất từ đời nhà Thương. Còn phía Nam có thể nói suýt soát vào đầu công nguyên dưới hai hình thức Bà La Môn trước rồi Phật giáo sau, cả hai đã lôi các nước Miến, Thái, Mên, Lào, Chiêm Thành, Indonésia, Mã Lai và nhiều đảo Thái Bình Dương ra khỏi khối Viêm Việt để đưa vào quỷ đạo của nền văn hoá khác một trời một vực. Hai nền văn hoá Ấn và Việt giao thoa ra sao, các dân Viêm Việt còn giữ lại được gì là một đề tài phức tạp dành cho các sử gia.

Ở đây chúng tôi chỉ chú ý đến phía Bắc để bàn về giao thoa giữa Việt và Nho.

Theo truyền thuyết Nguyên Nho đã xuất hiện vào thời Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông. Xin nói ngay rằng đó không phải là những nhân vật lịch sử mà chỉ là những sơ nguyên tượng ghi lại những nhận thức đầu tiên về văn hoá của đại chủng Việt ( sẽ được bàn lại trong bài về : “ Vụ hiếp dâm lịch sử ” ở sau ) như Phục Hy làm ra Kinh Dịch, Thần Nông sáng nghĩ ra nghề nông, Nữ Oa đặt ra phép hôn phối hay đúng hơn là linh phối v. v. . . Ðây là những nhân vật đã xuất hiện lâu đời trước khi có Nho và trên phần đất còn là của Việt.

Từ đó chúng ta có thể kết luận sang bình diện văn hoá là Viêm Việt đã đặt nền móng trước hết được biểu thị bằng tích Phục Hy đặt ra Kinh Dịch, xem thấy Hà Ðồ, Nữ Oa đặt ra đàn 5 dây tức Ngũ hành ( Nữ Oa luyện đá ngũ sắc ). Thần Nông đặt ra y học, nông học . . . vì Kinh Dịch, Ngũ hành, nông học. . . sẽ là cơ sở của Nho sau này, nên kết luận được rằng Viêm Việt đã đóng góp phần quan trọng trong việc hình thành Nguyên Nho, một tinh thần nông nghiệp vĩ đại nhất. “

4 .- Tinh thần nông nghiệp

“ Trong nông nghiệp có hai lễ quan trọng là Gieo và Gặt đã xuất hiện rất lâu đời, mà sự biểu lộ là lối hát cặp đôi như hát Trống Quân, ca Lý liên với tục hợp thân trên cỏ ( đạp thanh ). Những khối tượng đang giao hợp trên thạp Ðào Thịnh, hoặc hình hai con sấu giao tay có thể coi là đang diễn lại những màn chính của lễ nông nghiệp xưa, nó là tục chung cho cả Việt cũng như Tàu thái cổ, nó chỉ tôn giáo Phong nhiêu với niềm tin sự giao hợp theo nghi lễ sẽ thông sức phong phú cho vũ trụ, cho mùa màng.

Chính sự giao hợp này đã được trừu tượng hoá thành hình tam giác gốc trong các trống Ðồng.

Nói người Tàu thái cổ là muốn chỉ những người Tàu còn giữ rất nhiều phong tục tập quán giống với đại chủng Việt, nên lối sống cũ của họ là những bằng chứng về nguồn gốc văn hoá chung. Lối sống đó cũng gần như lối sống các dân phương Nam, như được chứng tỏ trong Kinh Thi, thí dụ bài Sông Trăn, Sông Vĩ chính là tục hát đối đáp giữa hai cô cậu, và khi cô cậu ưng nhau liền hiện thực nghi lễ vừa hát vừa lội qua sông, rồi hợp thân ngay trên đồng cỏ, chữ Nho kêu là bôn. Chữ bôn ( 奔:Theo trai ) viết với bộ huỷ là cỏ ( xem tả kỹ trong Maspéro, Taoisme. p. 230 ). Cùng với lúc đó có những lễ nghi chính thức mở mùa trống Quân như lễ xuất hỏa trước, rồi lễ Nam giao sau. Cả hai nhằm mở đầu lễ hội mùa Xuân, được coi là thành phần lễ Gieo.

Ban đầu các lễ Xuân được tổ chức chung cho nhà cai trị cũng như dân chúng như còn để ấn tích trên mặt trống, sau kêu là “ Trống ” Quân. Truyền thuyết kể các tổ mẫu nhà Thương, nhà Chu đều thụ thai theo tục Trống Quân. Bà Giản Ðịch nhân nuốt trứng chim én ( ngày xuân con én đưa thoi ) sinh ra Tổ nhà Thương. Bà Khương Nguyên đạp vào lốt chân người to lớn mà có mang sinh ra Tổ nhà Chu. Tóm lại vua quan cũng mừng lễ Gieo như dân, chỉ khác là trọng thể hơn.

Về lễ Gặt bên Tàu xưa có lễ “ bát chá ”để cảm tạ 8 vị thần mà đứng đầu là thần Gặt ( Taoisme . p. 21 ). Vua quan phải mặc áo thường dân để tham dự . . . Chữ bát chá là tiếng đời Chu, trước nữa kêu là Lạp, Việt kêu là Chạp ( tháng Chạp ), tức là tháng bế mạc gặt hái. Trên đây chỉ kể sơ qua về hai lễ Xuân, Thu để nói lên Tàu, Việt xưa cùng một cơ cấu xã hội nông nghiệp với tục lệ gần nhau. Ngoài ra còn nhiều tục khác cũng “ đại đồng tiểu dị ” như tục Tả nhậm, sau còn in dấu trong việc đề cao bên Chiêu, bên Ðông trong thứ tự Chiêu, Mục. Tục đeo lông chim khi ca vũ như trên mặt trống Ðồng cũng được thấy ghi trong cổ sử từ đời ông Thuấn cho đến trường Bích Ung của nhà Chu và được duy trì trong lễ tế Nam giao. Tinh thần công thể được biểu thị bằng định chế Tỉnh điền, sau đổi ra Ban điền . . . giống công xã nguyên thuỷ của Việt tộc, về số vật tế cũng gồm:



Tế tam sinh ( số 3 ): Cừu, bò, heo.

Tế ngũ sinh ( số 5 ): thì thêm gà và chó giống như Việt đã khảo cổ minh chứng.



Tóm lại trên đây chỉ là mấy khái niệm tổng quát mà các khoa nhân văn sẽ tìm thêm chi tiết; với triết thuyết bấy nhiêu đã tạm đủ để kết luận được rằng càng ngược về trước càng thấy nhiều điểm giống nhau giữa Nho và Việt, nhưng sự khác biệt dần dần đến như sau: Thứ nhất, hát Trống Quân ở các chi Việt ( như Thái ) thì con nhà quý tộc cũng đi dự như mọi người, không có sự phân biệt như bên Tàu. Bên Tàu có phân biệt là do sau, chứ ban đầu thì không, như đã nói trên, về sau mới có thêm lễ Cầu Môi và nhiều luật pháp do vương quyền đưa ra để kiểm soát hôn phối, rồi tìm cách hạ giá Trống Quân vì là lối tự do kết hôn của dân gian không cần đến vương quyền nếu không bắt vào tròng Cầu Môi thì vua làm sao kiểm soát. Thí dụ thứ hai là đàn bà ở cả Việt lẫn Tàu thái cổ đều có địa vị cao, nhưng bên Tàu càng ngày càng bị dìm xuống sâu. Vậy cần nghiên cứu cái bước bật rễ đó vì nó là khúc rẽ của Tình và Lý để nền văn minh mới ra đời mang một bộ mặt khác hẳn với Nguyên Nho, đến nỗi phải gọi bằng tên khác gọi là Bá Nho hay Hán Nho, tức là nguyên Nho đã bị pha nhiều yếu tố du mục.

5 .- Du mục

Những yếu tố du mục đã lần lượt đi vào nước Tàu từ thời khuyết sử, màn mở đầu được huyền thoại gọi là Hoàng Ðế chiến Si Vưu đại biểu nông nghiệp bị xâm chiếm do Hoàng Ðế. nhưng đó mới là huyền thoại. Còn sự chiếm đoạt có bằng chứng sử sách phải kể từ nhà Thương, với sự chiếm đoạt nghệ thuật như di chỉ Long Sơn chứng tỏ. Ðến nhà Chu đã đưa vào văn tự của Nho 4 yếu tố sau:

1 .- Ý niệm về Thiên tử với thiên mệnh đề cao nhà vua.

2 .- Luật hình làm gia tăng oai quyền cho vua.

3 .- Hoạn quan đẩy quyền sở hữu đàn bà của vua đến độ tuyệt đối.

4 .- Chuyển tài sản từ tay công xã nguyên thuỷ sang tay phong kiến là tuyệt đối hóa tài sản của vua.

Tiếp tới đời Tần Hán: nhà Tần là đỉnh chót của du mục, của pháp gia đã biểu lộ qua sự đốt sách chôn Nho. Rồi đến nhà Hán kế tiếp bằng cách biến Nguyên Nho thành một thứ quốc giáo là Nho chuyên chế. Hãy bàn sơ qua 4 điểm du mục này:

1 .- Thiên tử là một hình thái rút nhẹ của ý niệm thần phát xuất từ Iran, theo đó vua kể mình như Thần tức cũng như Trời. Ðến khi truyền sang bên Tàu thì có phần giảm bớt hơn: vua không dám xưng là Thần mà chỉ xưng là “ Con Thần, hay con Trời ( Thiên tử )” cũng thế. Ðó là một sự nhượng bộ tiếp cận với Nho, như Alexandre cũng chỉ xưng mình là con Trời là do đã nhượng bộ óc dân chủ bên Hy Lạp. Như vậy nạn chuyên chế cao độ nhất dưới hình thức Vua Thần đã đi vào Nho đến một nửa dưới danh hiệu Thiên tử.

2 .- Ðiểm thứ hai là luật hình với thiên Lữ Hình trong Kinh Thư ( phần Chu thư ) nói lên uy quyền của vua chuyên chế từ trên áp đặt xuống, nó trái ngược hẳn với óc lễ trị của Việt tộc từ dân gian. Vì vậy trong Nho học có vấn đề: thiên Lữ Hình do Mục Vương lúc gìà lẩm cẩm truyền làm, tại sao lại được đưa vào Kinh Thư ?

3 .- Ðiểm ba là Hoạn quan nói lên sự độc tài và độc chiếm đàn bà của nhà vua ( vua Thần ) đến cùng cực. Vua có hàng ngàn cung phi mỹ nữ, tuyệt đối không ai được động vào.

4 .- Ðiểm tư Phong kiến là độc chiếm điền thổ của dân làng làm của riêng vua để rồi cắt phong cho kẻ này người kia tuỳ ý, làm mất sự bình quân tài sản của xã hội Việt nguyên thuỷ.

Ðó là 4 yếu tố du mục đã pha vào Nguyên Nho để biến Nho thành một thứ tả - pín - lù hợp với khẩu vị của kẻ chuyên chế, vì thế tuy Tàu là nông nghiệp mà cơ chế đến phân nửa là du mục.

Hãy xét về một điểm then chốt nữa là nhà cai trị cũng đến quá nửa là du mục. Toàn thể lịch sử Trung Quốc được dệt nên bằng những cuộc xâm lăng của du mục, khởi đầu tự ngàn xưa, tự Hoàng Ðế dẫn đến nhà Chu, rồi đến nhà Tần, nhà Hán, cả thảy hơn 2000 năm, sau này vẫn còn tiếp nối. Có thể chia sự tiếp nối làm hai đợt:

1 .- Ðợt nhất gọi là xâm nhập gồm 3 triều Bắc Ngụy thuộc dòng Thát Bạt ( Topa ) từ 385 – 556 tức 170 năm.

2 .- Ðợt hai kêu là chinh phục gồm 4 nhà:

* Liêu 907 – 1125 ( 218 năm ).

* Kim 1165 – 1234 ( 165 )

* Nguyên 1206 – 1326 ( 120 năm )

* Thanh 1644 – 1911 ( 267 năm )

Cộng cả lại là 794 năm chinh phục nhập với 170 năm xâm nhập vị chi là 964 năm. Vo tròn lại là 1000 năm, cộng với 2000 năm trước nữa là 3000 năm, như vậy có nói Trung Quốc mang tính chất du mục quả là có nền tảng ngay trên phương diện sử.

Khi học giả Frank nhận xét luật pháp Tàu có Nữ tính là tại so với luật pháp Tây phương đầy Nam tính, chứ so với văn hoá Việt thì Tàu lại nhiều Nam tính. Phần Nữ tính chỉ là ảnh hưởng do Việt tộc ( về nông du bên Trung Quốc được phân biệt rõ nhất do học giả Lattimore nói về hai nguồn văn hoá trong nước Tàu, xem Need. I . 101 ).

Vì lý do trên xưa rầy người ta chỉ nhận thấy Hán Nho chẳng mấy ai nhìn ra Nguyên Nho cũng là Việt Nho. Nhưng chính nền văn hoá nguyên thuỷ này mới đem lại cho Trung Hoa những nét dặc trưng căn bản giàu tính cách nhân chủ. Có thể nói Hán Nho mạnh ở triều đình, ở giới bác học, ở thị dân , còn Việt Nho mạnh ở thôn dân, ở làng xã. Ðiều đó chứng tỏ phương Nam vẫn giữ được nhiều tinh thần nhu hoà, tả nhậm, khiến Khổng Tử luôn luôn hướng lòng về phương Nam cho nơi quân tử phải y cứ ( Trung Dung . 10 ).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.