Thứ Hai, 7 tháng 5, 2012

Tinh thần Đại Hùng Đại Lực & Đại Từ Bi của nhà Phật và quan niệm Tri Túc của Đạo Giáo.

          
  Hai nguyên tắc của Đạo Đức kinh của Đạo giáo (còn gọi là Lão giáo) đuợc kim Dung áp dụng trong việc mô tả các nhân vật của mình là " tri túc tri chỉ " và  " bất tranh " .
  Tri túc tri chỉ có nghiã là  BIẾT  như thế nào là VỪA ĐỦ cho mình và  dừng lại  ở đó chớ không mong muốn đòi hỏi thêm nữa mà thành ra đi quá mức.
  Cứ theo Đạo Đúc Kinh thì  "tri túc bất nhục, tri chỉ bất đãi ", nghiã là biết đủ thì không bị nhục, biết dừng lại đúng lúc thì không bị nguy. Bô kinh này cũng bảo rằng : " họa mạc đại ư bất tri túc, cữu mạc đại ư dục đắc ", nghĩa là không họa nào lớn bằng việc không biết là mình đã đủ rồi, không mối hại nào to bằng việc cứ muốn thêm mãi  .
" Bất tranh " có nghĩa là không tranh giành. Nguyên tắc này cũng đuợc gọi là "bất vi thiên hạ tiên " nghĩa là không dám đứng truớc thiên hạ.
   Nguời có nhiều khả năng nhưng không tranh giành, không dám đứng truớc thiên hạ thì không bị ai ganh ghét chống chọi. Bởi đó, khi tình thế bắt buộc đòi hỏi một kẻ có đủ khả năng như nguời ấy đứng ra gánh vác hay điều khiển thì nguời đó dễ dàng đuợc đại đa số chấp nhận làm kẻ lãnh đạo.
                                                                               .  .  .  .  .  .  .  .

   Tinh thần đại hùng, đại lực và đại từ bi đối với sự hòa giải hòa hợp bên trong các dân tộc và giữa các dân tộc đưa đến nền hòa bình cho loài nguời.

   Sư hòa giải hòa hợp đưa đến hòa bình chỉ có thể thực hiện khi những nguời hoạt động chính trị đều thật sự yêu thuơng nguời khác và có đủ sức chế ngự các dục vọng của mình, để không bị lòng tham quyền lực danh vọng cuốn vào con đuờng độc đoán và tàn ác. Các đức tánh cần thiết trên đây đã đuợc nhiều triết gia, học phái đạo đức nêu ra.
   Nhưng tự cổ chí kim, từ đông sang tây, không có truờng phái nào có những nhận định và chủ truơng thích ứng bằng Phật Giáo về các vấn đề này. Đó là vì Phật Giáo có những nguyên tắc căn bản khác với nguyên tắc của các giáo phái khác.
1-   Giáo lý nhà Phât không kêu gọi con nguời nhắm mắt tin tuởng theo mình và tuyệt đối tuân hành mạng lịnh các giáo sĩ của mình để đuợc cứu rỗi hay huởng phuớc. Trái lại, nó dạy nguời phải dựa vào mình truớc nhất và phải cố gắng tự giải thoát . ngay đến pháp môn Tịnh Độ Tông dạy nguời tu hành bằng cách niệm Phật cũng không phải là một lối giải thoát hoàn toàn bằng tha lực, vì việc niêm Phật hàm ý là nguời tu theo Tịnh Độ tự nguyện làm lành lánh dữ và giữ các giới cấm tối thiểu. Sự tu hành theo Phật Giáo thuộc mọi tông phái đều đòi hỏi nguời phải có sự đại hùng đại lực, tức một sức mạnh tinh thần vững chắc.
       Về mặt suy luận, tinh thần ĐHĐL mà PG đòi hỏi nơi con nguời đưa đến sự tự do tư tuởng. Nguời theo PG chân chánh không để cho mình bị cột buộc vào bất cứ tín điều hay định kiến nào mà phải tự mình suy nghĩ để tìm chân lý. Trong bộ kinh Tăng Nhứt Tập, có ghi việc Phật dạy nguời Kalama không nên tin theo truyền thống, kinh sách hay bực thày đạo hạnh cao siêu, mà chỉ nên tin theo cái phải /quấy mà chính tâm trí mình nhận thức đuợc.
  Trong lịch sử nhân loại, Đức Phật là vị giáo tổ duy nhất nhiều lần căn dặn các đệ tử không nên tin ngay các điều ngài nói mà phải xét kỹ lại những lời nói đó, khi nào thấy chắc chắn nó có giá trị thì mới tin theo.
2-   Chẳng những tự mình theo nguyên tắc tự do tư tuởng, nguời Phật tử chân chánh còn tôn trọng sự tự do tư tuởng của nguời khác. Phật đã dạy đã dạy các đệ tử phải đối xử với các giáo lý và giáo phái khác một cách khoan dung. Có lần nguời cầm đầu một giáp phái sai đệ tử là Upali gặp đức Phật để đấu lý về thuyết luân hồi. Upali thấy Phật có lý nên xin làm đệ tử của ngài. Nhưng Phật bảo : « ông phải suy nghĩ cho thật chính đính về lời nói của tôi chớ không nên vôi vã ». Ông Upali thiết tha nài nỉ, Phật yêu cầu ông đừng bỏ thày cũ mà phải phụ giúp thày này như truớc. câu chuyện này cho thấy Phật giáo dạy nguời mở rộng tâm não để thông cảm với mọi giáo lý khác, vì chân lý vốn hiện ra muôn mặt và thuờng thì mỗi học thuyết đều có chỗ sở đắc của nó. nguời Phật tử chân chánh phải phá trừ kiến chấp, tránh sự cuồng tín hẹp hòi.
3-    Nhưng sự khoan dung của Phật giáokhông phải đưa đến sự tiêu cực thụ động truớc những việc làm của kẻ sai quấy. Tinh thần đại hùng đại lực chẳng những đuợc dùng vào việc tự thắng mình để tìm chân lý và theo chánh đạo mà còn phải đuợc dùng vào việc chế ngự các lực luợng ác hại. Tuy nhiên, trong sự đối phóvới những kẻ sai quấy, tinh thần đại hùng đại lực cần phải hòa với tinh thần Đại Từ Bi , đối với kẻ hung bạo không phải là quyết tâm diệt trừ mà cố gắng cảm hóa để lôi về con đuờng phải và cho dù có phải sát hại họ vì công lợi thì cũng không nuôi lòng hận thù. Trong tinh thần Phật giáo, đại từ bi hết sức cần thiết để cân lại đại hùng đại lực . 
   Cái khó trong việc đạt hòa bình cho thế giới không phải phát  xuất từ chỗ Phật giáo chưa phổ biến khắp nơi , nó phát xuất từ chỗ chính nguời đã qui y Đức Phật, và dù đã thông hiểu giáo lý của ngài mà vẫn chưa có đuợc tâm tánh và hành động như lời ngài dạy .   
                                 .    .     .    .     .    .

Trích trong  tác phẩm "Các Ẩn Số Chánh Trị Trong Truyện Võ Hiệp Kim Dung » của GS Nguyễn Ngọc Huy.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.