Phương Nam, Ánh Sao Nơi Cuối Trời, Tháng 4-1975 (Phần 1) |
Tác Giả: Cựu MX Lâm Tài Thạnh TĐ 9 TQLC | |||||||||||
Thứ Hai, 26 Tháng 3 Năm 2012 10:52 | |||||||||||
Đường đi khó, Không khó vì ngăn sông cách núi, Mà khó vì lòng người ngại núi e sông (Ng. Bá Học) Phần 1: Lệnh Triệt Thoái Bất Ngờ (Tự truyện 20 ngày là tù binh và vượt thoát từ Đà Nẳng đến Vũng Tàu -- từ 30/3/1975 đến 18/4/1975)
Mỹ Khê chiều sóng dậy, pháo rền vang Quân triệt thoái, Tàu không vào bến đỗ Lối sanh đào, vượt thoát phá vòng vây Trên đầu súng, khói vương niềm uất hận Chiến trận tàn, báo tử thiếu hồi chuông Đà thành mất, sử xanh còn ghi dấu Mãnh Hổ tình, huynh đệ nói chia ly Tim rướm máu, xót đau lời tan Cố tìm về quê Mẹ, đất phương Nam. (Tây Đô ) 1. - Thành phố bỏ ngõ trong ngỡ ngàng. Tuyến kháng cự, phòng thủ sau cùng của Tiểu Đoàn 9 TQLC là đại chủng viện thánh Phaolồ (thuộc nhà thờ Chánh Tòa Công Giáo Đà Nẳng ) nằm dọc theo bãi biển Mỹ Khê, Non Nước trong bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng đây là một kiến trúc kiên cố với những bức tường che chắn, vững chắc có thể hạn chế sự xuyên thủng của các loại vũ khí cá nhân, tạo sự an toàn tối thiểu cho các quân nhân đang sẳn sàng chiến đấu, vị trí nầy được liên kết với nhau bằng nhiều dãy nhà cao tầng, rất tiện lợi và hữu ích cho việc quan sát, phòng thủ, ngăn chận các đợt tiến công, trong cuộc trì hoãn chiến không cân sức nhưng cần thiết nầy. (Xin xem Trận chiến sau cùng của TĐ 9TQLC / ĐSST 2004. Tác giả Cựu ĐÚy Đoàn Văn Tịnh Trưởng Ban 3 / TĐ 9). Kể từ 11:30 sáng Ngày 29 Tháng 03 Năm 1975, mọi cố gắng liên lạc với Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 369 TQLC và các đơn vị yểm trợ, chỉ được trả lời bằng sự im lặng khó hiểu. Trong lúc đang di chuyển ngang qua một phi đạo cũ trong căn cứ Non Nước, tình cờ Tôi gặp Đ/Úy Trần Văn Hên là bạn cùng Khoá 17TĐ, Đại ĐộiTrưởng Đại Đội Duyên Hải thuộc Tiểu ĐoànYểm Trợ Thủy Bộ TQLC. Đ/Úy Hên là người nhận lệnh và có trọng trách thiết lập đầu cầu di tản, triệt thoái, v,v… (Trích thư của Đ/Úy Hên : Chiều ngày 26 tháng 3 năm 1975 nhận lệnh của Sư Đoàn, Tiểu Đoàn Yểm Trợ Thủy Bộ chuẩn bị lập đầu cầu di tản cho các đơn vị TQLC tại bãi biển Non Nước vào sáng ngày 29 tháng 3 năm 1975. ĐĐ Duyên Hải phụ trách an ninh bãi và phương tiện cấp cứu trên biển như áo phao, xuồng máy an toàn bải v..v..) (Tiểu Đoàn 9 hoàn toàn không biết về Lệnh HQ nầy). Tôi và Hên cùng nhau trao đổi một số chi tiết liên quan đến tình hình triệt thoái, lui binh. Hên khuyên Tôi phải rời căn cứ Non Nước, tìm một phương cách, giải pháp khác, để bảo toàn đơn vị. Chúng tôi chia tay nhau mà chưa ai biết được cuộc diện và số phận sẽ ra sao. Cuối cùng khoảng 12:30 trưa qua tần số liên lạc truyền tin với các đơn vị bạn, Tôi tiếp xúc được với Hà Nội ( Cố Thiếu Tá Trần Văn Hợp Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 2 TQLC đã chết trong Trại Tù khổ sai Cộng Sản ở miền Bắc vào năm 1978 ). *** sau đây là đàm thoại giữa Tôi và Th / Tá Hợp mà Tôi còn nhớ như mới xảy ra. *** ----!!! _ Hà Nội đây Tây Đô. ** Tôi nghe Tây Đô 5 / 5. ----!!! _Hà Nội đang ở đâu? ** Tôi đang cưỡi cá. (lúc nầy các loa tăng âm của máy truyền tin PRC 25 theo lệnh Tôi đã được tháo bỏ để tránh sự xôn xao, bàn tán, bất lợi cho đơn vị ). ----!!! _ Hà Nội có số nhà của Hồng Hà Quang Trung ( Hải Quân ) cho Tôi, để Tôi 2 lần Lê Lai (liên lạc) yêu cầu họ vào “ Zulu ” ( di chuyển ) con cái Tôi. Im lặng trong vòng 1 phút . ** Tây Đô sẳn sàng chưa? Tôi ra dấu cho âm thoại viên Lương (?) chuẩn bị ghi xuống. ----!!! _ Hà Nội cho qua. Sau khi lập lại 4 con số chính xác cho âm thoại viên Lương. Tôi nhờ Anh Hợp báo cho phía Hải Quân biết trước, danh hiệu liên lạc của Tôi, nhằm tránh sự “ hiểu lầm địch xen vào tần số”. ** Anh Hợp trả lời OK và chúc Tây Đô may mắn. Cuộc điện đàm chấm dứt trong tiếng đạn nổ rền vang bởi các đợt pháo kích của pháo binh Cộng Sản, nhằm chuẩn bị mở đường cho các đơn vị chánh quy bộ binh Bắc Việt, còn đang trên đường “ tiến quân ” từ xa vào thành phố Đà Nẳng. Tôi lặng lẽ, trao trả ống liên hợp cho âm thoại viên Lương và tự hỏi với chính mình --- Làm sao đây? --- Kế hoạch nào có thể thực hiện được? --- để đưa đơn vị ra biển với tình hình gần như tuyệt vọng nầy, trong khi Đại Đội 3 ĐĐT là Tr / Úy Trương Văn Ba và Thiếu Tá Nguyễn Văn Lộc Tiểu Đoàn Phó còn đang cố gắng, tìm về với BCH Tiểu Đoàn 9, hiện nay “dậm chân” tại chổ vì các xuồng cao su của Công Binh TQLC có nhiệm vụ đưa toàn bộ Tiểu Đoàn 9 vượt qua nhánh nhỏ sông Hàn, nằm kế bên một trại cưa theo lộ trình, kế hoạch lui binh, triệt thoái của … để ra bãi biển Non Nước, đã không còn ai phụ trách, những quân nhân làm nhiệm vụ đã bỏ nhiệm sở, sự việc nầy gây khó khăn, làm chậm bước tiến của ĐĐ3, trên đường tìm về hội tụ cùng BCH Tiểu Đoàn lúc nầy đang chuẩn bị di chuyển hướng về vị trí phòng thủ sau cùng ở đại chủng viện (trước đó khi được báo tin về tình hình biến chuyển, không thuận lợi cho ĐĐ3 và Th / Tá Tiểu Đoàn Phó, Tôi đã bàn thảo với Th/Tá Lộc cho ĐĐ3 đổi hướng, len lỏi trong các xóm nhà ngoại ô, đi ngược về phía cầu Trịnh Minh Thế tìm đường khác đến điểm hẹn ). Tôi xử dụng máy liên lạc với không lực, chuyển qua tần số của Hải Quân. Sau vài lần gọi, Tôi nói chuyện được với hạm trưởng Hải vận hạm Ninh Giang 403 (Thiếu Tá Nam, ám danh đàm thoại là Nam Hổ?). Hiểu được sự cần thiết phải nhờ cậy Hải Quân, trong giây phút sanh tử nầy, nên Tôi phải xuống giọng gần như “năn nỉ ” hầu có thể cứu lấy đơn vị, nhưng tiếc thay với lý do địch pháo kích, thiếu an toàn nên Hải quân không thể vào “ủi bãi ” đón TĐ 9 trước 8 giờ tốí nay Ngày 29 Tháng 3 Năm 1975. --- Cái gì --- *** Qua ống liên hợp Tôi hét lên --- Nam Hổ đây Tây Đô, các đơn vị chánh quy Bắc Việt chưa vào Đà Nẳng nếu chờ đến - 8 giờ tối - Tôi nghĩ rằng quá trể cho việc “ zulu ”; Nam Hổ có “ủi bãi ” thì chỉ vào lấy xác chúng tôi mà thôi ---- ***. Im lặng trong khoảng một phút : --- Tây Đô đây Nam Hổ --- Tôi nghe --- Rất tiếc, lệnh trên không cho “ ủi bãi” lúc này, bạn ráng chờ đến tối, chúc may mắn. Không có sự lựa chọn nào khác, như dòng sông phải đổ ra biển, như cuộc tình khi không còn mộng đẹp ban đầu thì phải nói lời chia tay. Tôi đồng ý và khẳng định với hạm trưởng Hải Quân là TĐ9 TQLC sẽ giữ vững phòng tuyến cố thủ, chờ đợi đến giờ hẹn. Tôi cũng yêu cầu hạm trưởng Hải Quân giữ liên lạc thường xuyên với Tôi. Hồn tử sĩ gió ù ù thổi Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi Chinh phu tử sĩ mấy người Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn. ( Chinh phụ ngâm ) Sau vài phút suy nghĩ, Tôi tự lấy máy liên lạc nội bộ, đứng riêng ra một góc, không quá gần các quân nhân trong ban chỉ huy Tiểu Đoàn. Tôi không muốn những đối thoại, trao đổi giữa Tôi và Th/ Tá Lộc TĐPhó sẽ làm cho tinh thần quân nhân dưới quyền bị giao động. Tôi kể lại cuộc đối thoại giữa Tôi và Th/ Tá Hợp TĐ 2 cũng như lời hứa của Hải Quân…!! Chúng ta không thể kỳ vọng vào lời hứa của họ. Chúng ta phải tự lo liệu mà cứu lấy đơn vị!! Tôi kết luận và nói với Th/ Tá Lộc về kế hoạch “tự cứu” như sau : ĐĐ 3 dưới sự điều động của TĐPhó Lộc phải đổi hướng di chuyển, khi đi đến các xóm nhà có đông dân cư hành nghề đi biển, dọc theo con sông Hàn, bằng bất cứ giá nào, kể cả dùng “vũ lực ” thu, gom tất cả các phương tiện ghe, xuồng dùng vào việc đi biển và nếu cần thiết, bắt giữ luôn các ngư dân biết xử dụng các phương tiện đó, rồi xuôi theo nhánh sông Hàn ra điểm hẹn gặp. Tôi tại tọa độ X. Th / Tá Lộc cho biết: hiện nay ĐĐ3 đang bị quấy rối bắn tỉa bởi bọn đặc công Cộng Sản nằm vùng và du kích địa phương đang bám sát, dẩn đường cho quân chánh quy Bắc Việt truy kích. Anh còn cho biết thêm, qua tin tức của dân chúng chạy loạn, Thành Phố Đà Nẳng đã hoàn toàn bỏ ngỏ, toàn bộ các đơn vị của Quân Khu 1 đã “tan hàng” lúc giữa trưa mà chẳng có “trận đánh giữ sĩ diện nào được thực hiện” ngoại trừ 2 cánh quân còn đội hình và sẵn sàng tác chiến của Tiểu Đoàn 9 TQLC. Anh hoàn toàn đồng ý với kế hoạch Tôi đề xướng và sẽ cho Đại Đội 3 thi hành ngay lập tức. (--- Thiếu tá Lâm tài Thạnh, Tiểu Đoàn Trưởng/ TĐ9 TQLC người anh cả của đơn vị, cho tập hợp từ Tiểu Đội Trưởng trở lên nói những lời chân tình trước thuộc cấp --- tôi không bỏ đơn vị được, giờ phút nầy tôi và các anh em hãy tự lo liệu ! (Trích thư của Tr / Úy Lưu minh Quan). 3 giờ chiều Ngày 29 Tháng 03 Năm 1975, Tôi ra lệnh cho nhân viên truyền tin (Hạ sĩ 1Kim Anh và Vũ quang Bình người phụ trách quay đầu bò ) xử dụng máy truyền tin PRC 79. gởi công điện cuối cùng cho Tr/ úy Trần Trung (Chỉ huy hậu cứ TĐ 9 TQLC) nhằm mục đích cho hậu cứ biết rõ tình hình của đơn vị, còn đang tiếp tục chiến đấu, chưa bị thiệt hại nhiều, cũng như các tin tức liên quan đến những giây phút cuối cùng của Tiểu Đoàn. Tôi chỉ thị trong công điện là đích thân chỉ huy hậu cứ, phải thông báo cho thân nhân của mọi quân nhân Tiểu Đoàn 9 TQLC hiểu rõ tình trạng của đơn vị, hầu sau nầy trong tình huống xấu nhất, các thân nhân còn có được một sự an tâm tối thiểu về sinh mạng của người thân, kể cả có ngày để nhớ cho “lể giỗ” sau nầy!!! Trong bóng chiều, ánh nắng cuối ngày, tắt dần về hướng Tây, mặt trời còn chút màu đỏ ráng, chiếu các tia nắng sau cùng trên các hàng cây nhấp nhô, mênh mông như một biển máu đang chờ đợi những con người “chí không nản, lòng không sờn” dù biết niềm tin khó thành hiện thực, khi dỏi mắt nhìn theo hình dạng các con tàu, xa dần nơi biển khơi. Tôi thật sự nát lòng, khi ra lệnh phá hủy máy truyền tin PRC79, phương tiện còn lại duy nhất có thể liên lạc tầm xa với thế giới tự do, vùng đất quê mẹ phương Nam, nơi đã sản sinh, nuôi dưởng, đào tạo Tôi nên người, để có một vị trí chỉ huy như hôm nay; đó cũng là nơi chan chứa những yêu thương vô vàn gắn bó, ràng buộc của Mẹ, Cha, Anh, Em, Bè bạn, của tình Chồng, nghĩa Vợ, của tiếng cười, khóc vô tư, hồn nhiên con trẻ. Nay mọi thứ đã bị cuốn trôi theo “cơn hồng thủy nghiệt ngã nầy” trong nổi nghẹn ngào, uất ức của những chứng nhân bất đắc dĩ. Cuối cùng Tiểu Đoàn 9 TQLC đã không hoàn tất được cả 2 kế hoạch lui binh triệt thoái của chính đơn vị và của mình. (Riêng Tiểu Đoàn 9 TQLC vì phải bảo vệ cho 2 Tiểu Đoàn 2 và 6 rút nên bị địch tấn công, sau cùng bị kẹt lại trên bờ. **Trích “ Can trường trong chiến bại ” của phó đề đốc HVKỳ Thoại. Trang 271 dòng 18 - 20 ** ) Toàn thể chúng tôi trở thành tù binh của lực lượng võ trang Tỉnh Đội Quảng Nam Đà Nẵng rạng sáng Ngày 30 Tháng 3 Năm 1975 . (**Trích thư của cựu Tr/úy Lưu minh Quan Cựu ĐĐT / ĐĐ1 / TĐ 9: Bãi biển Mỹ khê, địa danh mà tôi phải ghi nhớ trong đời. .Trời càng tối, đêm hôm ấy tôi, Tây Đô (Th/tá Thạnh), Tân an (Đ/Úy Tịnh) Phú sĩ (Đ/ Úy Phán) phải luồn lách trong những đám rau lang và cây chuối để tìm lối ra lại TP Đà Nẵng hơn 1 giờ sáng thì bị du kích bắt giữ**). (**Trích thư T/ Úy Trương phước Dĩnh, Sĩ quan truyền tin TĐ9: Em có nhớ một chi tiết, xin nhắc anh, xem anh còn nhớ không, sự việc xảy ra chỉ có anh, Đ /úy Tịnh, truyền tin mang máy và tài xế của anh, việc xẩy ra trên đường trở về, sau khi anh xuống Lữ Đoàn 369 họp (Thứ Tư 26 tháng 3 năm 1975) có một con mễn (con mang) chận đầu xe của anh, sau này nghiệm lại thấy trùng hợp với câu người đời thường nói “ mễn (mang) lạc, nát làng” chỉ vài ngày sau Tiểu Đoàn mình tan hàng **) –(-Ghi chú : Sáng Ngày 28 Tháng 03 Năm 1975 T / Úy Trương phước Dĩnh, Sĩ quan truyền tin của TĐ9 nguyên quán ở Hội An, được Tôi cho đi phép để xem tình hình gia đình, cha, mẹ ra sao, không ngờ bất thình lình, lệnh tử thủ trong phiên họp 26 Tháng 03 Năm 1975 bị hủy bỏ, với lệnh mới TĐ9 TQLC phải cho phá hủy đạn dược dự trữ, cấp tốc di chuyển lúc 1130 tối Ngày 28 Tháng 3 Năm 1975 để về phòng thủ giữ Đà Nẵng. Sau cùng T/Úy Dĩnh may mắn lội ra biển, lên được tàu HQ với TĐ2 TQLC trong ngày 29 / 3 / 1975 ). Hết Phần 1.
Phương Nam, Ánh Sao Nơi Cuối Trời, Tháng 4-1975, Phần 2: Giã Từ Vũ Khí - Bài Thương Ca Cá Chậu Chim Lồng
(03/24/2012) (Xem: 1091)
Cựu MX Lâm Tài Thạnh TĐ 9 TQLC
(Tự truyện 20 ngày là tù binh và vượt thoát từ Đà Nẵng đến Vũng Tàu từ 30/3/1975 đến 18/4/1975) Tiếng gà gáy sáng, văng vẳng bên ngoài, báo hiệu một ngày mới với những bất trắc, rủi ro không lường trước, đang chờ đợi kẻ chiến bại trong tức tưởi, xen lẩn cay đắng. Những người mới hôm qua đây, còn là một đoàn binh kiêu hùng với tinh thần chiến đấu cao độ, vũ khí đạn dược còn đủ, để giáng trả kẻ thù những đòn sấm sét và chận bước chúng như đã từng làm trước đây, thế mà bổng chốc trở thành kẻ trắng tay trong một cuộc triệt thoái, lui binh, thật sự không có trong binh pháp. Dưới ánh sáng chiếu le lói qua các khung cửa sổ Tôi chăm chú nhìn vào mặt dạ quang của cái đồng hồ Seiko 5, tài sản duy nhất còn sót lại, sau khi bị bắt rạng sáng hôm nay, nhờ bọn du kích chủ yếu tìm vũ khí nên không lục soát kỹ, 06:00 giờ sáng, cảm giác thiếu vắng ly cà phê và điếu thuốc đầu ngày khiến Tôi bức rức, khó chịu. Tôi không cảm thấy mệt mỏi, dù gần như thức trắng, trong khoảng thời gian chờ đợi sáng, thức đêm mới biết đêm dài, bao nhiêu suy tư lẩn lộn, cứ nhảy múa lung tung trong đầu óc, kể cả từ trong tiềm thức. Tôi chợt nhớ đến trong khoảng năm 1961 - 1962 Tôi có được xem một phim chiến tranh thời Đệ nhị thế chiến với tựa đề: Dunkirk evacuation (Cuộc di tản triệt thoái ở Dunkirk / Dukerque) nội dung kể lại cuộc di tản các đoàn quân Đồng Minh gồm Anh, Pháp và Nam Tư tại bải biển Dukerque nước Pháp, trước viển ảnh bị quân Đức bao vây và tiêu diệt. Lệnh di tản do chính Thủ tướng Anh lúc bấy giờ là Sir Winton Churchill ban hành Dưới sự yểm trợ tối đa hỏa lực của hải pháo và không lực Hoàng Gia Anh, sau 9 ngày (trong khi chỉ trong 9 Ngày Quân Đoàn 1 VNCH hoàn toàn bị xóa sổ) đã di tản được tổng số 338.226 quân nhân của Anh, Pháp : The next day, the BBC reported, Major-General Harold Alexander (the commander of the rearguard “chỉ huy trưởng quân đoạn hậu”) inspected the shores of Dunkirk from a motorboat this morning to make sure no-one was left behind before boarding the last ship back to Britain (Trích tài liệu từ trang web Wikipedia).
Cựu Thiếu Tá Lâm Tài Thạnh, cựu Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 9 TQLC. Hình chụp tháng 1-2975.
Tiếng vo ve của những con muỗi lượn quanh, đang cố gắng tìm mồi trước khi bình minh rọi sáng giúp Tôi trở về thực tế. Tôi nhìn quanh căn phòng nhỏ hẹp đang dùng làm nơi tạm giam giữ tù binh. Tôi biết đây là một lớp học của một Trường Tiểu học VNCH nằm trong khu vực Non Nước, hiện nay có khoảng 40 quân nhân cùng chung số phận “bị bỏ rơi”, hơn phân nửa là TQLC, trong số nầy có người mặc quần áo dân sự, có người mặc quần trận áo thun hay áo trận quần ngắn, những khuôn mặt thất thần, mệt mỏi, lo lắng với các ánh mắt dò hỏi, ngần ngại không biết phải xưng hô như thế nào cho phải lẽ, bởi sự thay đổi đến quá bất ngờ như trong giấc mộng, tiếng chắc lưỡi, thở dài cho sự thiếu may mắn, chậm chưn, bên cạnh cũng không thiếu vắng những tiếng chưởi thề để giải tỏa sự bực tức. Tôi thông cảm và hiểu được vì các quân nhân ấy cũng chỉ là những con người bình thường với hỉ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục, nay bổng nhiên mất hết tự do và mạng sống đang bị de dọa trầm trọng. Tiếng hỏi thì thầm khe khẽ của một quân nhân: Ông Thầy bây giờ tính làm sao? Không biết tụi nó đối xử với mình như thế nào Thiếu tá; tụi nó xem mình là tù binh hay hàng binh, Ông Thầy? cách xưng hô bất nhất cho thấy sự kích động, chứa đựng sự âu như thế nầy là điều dễ hiểu. Tôi nhìn thẳng vào mặt người quân nhân đang mặc áo thun, quần trận và chậm rãi nói lớn cho mọi người cùng nghe: Em đừng có quá lo lắng, chúng ta vẫn còn Chính Phủ, còn Sài Gòn, còn Vùng 3 và 4, còn hiệp định ngưng bắn Paris 1973 thì thế nào Quốc Tế và người Mỹ cũng phải lên tiếng can thiệp, để ngưng bắn và trao trả tù binh, phải giữ vững tinh thần, chịu đựng những khó khăn, thiệt thòi hiện nay, cũng như luôn cầu nguyện theo tôn giáo của em. Sau câu nói của Tôi, tình hình trong phòng giảm bớt sự căng thẳng. Riêng Tôi tự hỏi: có phải đây là một câu nói để tự an ủi, trấn an cho chính mình? Từ phía cuối phòng, khi ánh sáng còn chưa đủ để nhận diện là ai, một người đến sát bên Tôi và nói nhỏ: Thiếu Tá hãy thay bộ đồ nầy, cho đỡ nguy hiểm. Tôi nhìn các thứ đang nằm trên tay của B1 Phụng (cần vụ) đó là một cái áo gió loại mỏng và một cái quần jeans. Tôi buộc miệng hỏi: Phụng hả? Sao cũng ở đây? Làm sao mà có các thứ nầy? Phụng cho biết: khi TĐ9 vào trong chủng viện, lúc Tôi đang lo điều động việc bố trí phòng thủ, Phụng nhận thấy tình hình quá nguy cấp, khó thể thoát thân, Phụng đã đi xin quần áo dân sự, từ các nhóm người tản cư vì chiến loạn đang tá túc trong chủng viện, phòng khi cần đến cho Tôi. Tôi cầm lấy những vật dụng có thể giúp Tôi tạm thời không còn là cái gai trong mắt của những kẻ đang chiến thắng trong “ngạc nhiên và bất ngờ”. Tôi nói tiếng cám ơn trong cảm động, bùi ngùi gần rơi lệ. Tôi nghiệm ra một điều, có lẽ trước đây Tôi chưa cảm nhận được, đó là trong cuộc sống của 11 năm quân ngủ, bên cạnh những con người chỉ biết có lợi ích của bản thân (khi mâm tiệc còn đủ món ngon, vật lạ thì chiếu trên, chiếu dưới giành nhau công trạng nhưng đến khi tiệc tàn, rượu hết, bình vơi, chỉ còn lại xương xẩu, khó ăn, khó nuốt, thì đến lời nói ủi an cũng chẳng màng) vẫn còn có những tấmlòng chân chất, trung thực, dễ thương; tặng phẩm bất ngờ của B1 Phụng trong một đổi đời, lúc mà, chưa ai biết được số mệnh sẽ đi về đâu là biểu trưng vô giá cho tình chiến hữu, sống chết có nhau, hoạn nạn cùng chia sẻ với một ý tưởng đơn giản duy nhất, giúp ngụy trang phần nào lai lịch, nhằm che chắn cho sinh mạng, đang bị nhiều đe dọa của Tôi, trong lúc Tôi chỉ còn là con số không vô giá trị. Ôi thật cao quý cho nghĩa cử tương thân, tương ái nầy, bây giờ Tôi mới thấu hiểu sâu sắc câu nói của người xưa: Trong nghèo khổ mới biết ai là người con hiếu thảo. Lúc đất nước lâm nguy mới biết ai là trung thần (Gia bần tri hiếu tử. Quốc loạn thức trung thần). Tôi tự hỏi với chính mình: biết đâu, trong quá khứ B1 Phụng đã từng bị Tôi quở trách vì một lổi lầm nào đó, thế mà bây giờ trong hoàn cảnh “tù binh” giống nhau, thế thì điều gì đã khiến Phụng còn lo lắng cho Tôi đến giờ nầy? Phải chăng đó là “tình người cao cả”? . Tiếng động mở dây xích dùng để khóa cửa phòng giam, mọi người ngưng nói chuyện. Tôi nhìn đồng hồ 07:00 giờ sáng của Ngày 30 Tháng 03 Năm 1975, trong im lặng chờ đợi, hai người có dáng dấp trung bình, quần áo dân sự bình thường với vũ khí trên tay là 1 AK47 và 1 K54 bước vào phòng, đứng cách xa chúng tôi khoảng 3 thước, một người có dáng vẻ là chỉ huy lên tiếng trong âm ngữ miền Trung khó nghe, thông báo là Cách mạng đã thành công v…v…; sau vài phút khoát lác, khoe khoan thành tích, đột nhiên hắn ngưng lại: Trong các ông có ai là sĩ quan không? Bất chợt hắn buông ra câu hỏi và im lặng chờ đợi. Tôi quyết định thật nhanh và lên tiếng: Có ; trước các khuôn mặt đầy căng thẳng, lo lắng của mọi quân nhân trong phòng (khi bị bắt giải về Trường học Tôi đã lạc mất Đ/úyTịnh, Đ/úy Phán và Tr/ Úy Quan) . .- Quân hàm của Ông là gì? Tôi chẳng hiểu hắn hỏi điều gì, nên chưa trả lời. Tên cùng đi có lẽ là “ nằm vùng, hoạt động nội thành” thấy thế liền lên tiếng: Cấp bậc của Anh là gì? Tôi trả lời: Thiếu Tá. Cả hai cùng nhìn nhau và tên kia hỏi tiếp: Cấp chức của Ông? Tôi trả lời trước khi tên kia diển dịch: Tôi không biết chữ cấp chức Ông dùng là gì nhưng chức vụ của Tôi là Tiểu Đoàn Trưởng. Phiên hiệu của đơn vị Ông? Tôi lại “chới với” vì chẳng biết phiên hiệu là cái giống gì !! Tên nằm vùng lập lại câu hỏi: Anh thuộc quân binh chủng nào của Sài gòn? Tôi trả lời Thủy Quân Lục Chiến. Khi nghe Tôi trả lời, hắn nói ngay với tên có vẻ là chỉ huy Anh ta là Lính Thủy đánh bộ. Tên chỉ huy phán ngay một câu: Bọn lính ngoan cố, ác ôn đấy à!!!Tôi không trả lời nhưng cảm thấy tim đập nhanh hơn, một ý nghỉ thoáng qua: Không lẽ hôm nay là ngày cuối cùng của đời mình !! Những hình ảnh thãm sát kinh hoàng trong Tết Mậu thân 1968 tại Huế, chợt trở về trong trí nhớ. Tôi tự nhủ với chính mình – phải tìm cách thoát thân bằng mọi giá dù phải đánh đổi mạng sống - . --- Còn ai là sĩ quan trong phòng nầy không ? Mọi người cùng im lặng. Tên chỉ huy nói thêm vài điều quy định nơi giam giữ cũng như hứa sẽ có người mang nước uống, thực phẫm đến cho tù binh. --- Anh đi theo chúng tôi. Tên chỉ huy nói và ra hiệu cho tên mang AK47 tiến về phía Tôi, áp giải Tôi ra khỏi phòng, trong những tiếng chất vấn của B1 Phụng và một số quân nhân khác thuộc TĐ9TQLC . Tôi bước ra ngoài, cửa phòng giam đóng, khóa lại, luồng gió mát của không khí trong lành buổi sáng giúp Tôi thấy dễ chịu, sự tự do thong thả không còn bị giam giữ trong bốn bức tường dù chỉ tạm bợ trong chốc lát cũng cho Tôi thêm nghị lực và sẳn sàng đối phó với tình huống xấu. Nhìn một lượt quang cảnh chung quanh, Tôi thấy có khoảng 8 – 10 Lớp học được dùng làm nơi tạm giam giữ tù binh, các du kích địa phương bao gồm đàn ông lẩn đàn bà tới lui chuyện trò ồn ào, khoe khoan thành tích cũng như các loại vũ khí chúng thu gom được dọc theo bải biển Mỹ Khê Non Nước, chúng xưng hô với nhau: anh Tư, chị Sáu, chú Mười trong sự đắc chí, hả hê, nghe mà nóng mặt, Tôi tự nhủ lòng: ngày nào có cơ hội trở lại đây thì chắc là giết lầm hơn bỏ sót.… Phải quyết định nhanh, trước khi chúng nổ súng, bắn sau lưng mình. Tôi đi chậm bước và xoay người lại khi đang hướng về lớp học nằm cuối dãy. Tôi hỏi tên nằm vùng: -- Có thuốc hút cho Tôi một điếu? Cả 2 tên dừng lại, tên chỉ huy hỏi: Có hút được thuốc lá cẩm lệ không? --- Tôi lắc đầu, vừa tính lợi dụng sự chểnh mảng của bọn chúng khi đang nói chuyện để “liều mạng cướp súng” thì tên chỉ huy nói tiếp đồng chí chủ tịch ủy ban quân quản, bảo phải “ cách ly” các sĩ quan, để chiều nay giao lại cho bộ đội Sư 304. (Sư đoàn 304 Bắc Việt ).Tôi thở phào nhẹ nhõm, như thế là chưa tàn đời, đến lớp học cuối cùng, chúng giam Tôi vào trong đó, bỏ đi sau khi hứa sẽ có người mang cơm, nước đến cho Tôi . Tù binh tại Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 3 VNCH Trại Hoà Cầm.- Qua hai mươi bốn tiếng đồng hồ đầy căng thẳng, xen lẩn các câu tự hỏi mà không có câu trả lời. Tôi ngã lưng, nằm dài trên chiếc bàn học sinh, sau khi bao tử tạm ổn với 1 vắt cơm có con cá khô nhỏ và ca nhựa nước .!! Làm sao có thể tin được các lời nói của tên Việt Cộng có vẻ là chỉ huy? Hắn nói để cho Tôi yên tâm “ chờ chết ” hay như thế nào? Họ có áp dụng “đúng đắn quy chế Geneve về tù binh” hay không? Phần quân ta liệu có còn cơ hội phản công hay không? Tôi rơi vào giấc ngủ ngắn, buổi trưa với tâm tư xốn xang, bồn chồn. Đột nhiên những âm thanh vang dội của các loại xe vận tải lớn, ầm ỉ bên ngoài lớp học khiến Tôi giật mình tỉnh giấc, tiếp theo là những tiếng quát tháo, thúc dục, dọa nạt với giọng nói sặc mùi Bắc Việt, tiếng lên cơ bẩm các loại súng cá nhân, tiếng chân người chạy tới lui các dãy phòng lớp học, tiếng loa cầm tay nghe rõ ràng với lệnh là tất cả các tù binh ra khỏi phòng, tập trung ở sân trường Tôi đoán biết là quân chánh quy Bắc Việt đã tới để áp giải tù binh. Tôi cảm thấy an tâm phần nào, vì dù sao với một số lượng tù binh đông đảo, cũng như giữa buổi trưa như thế này thì chắc chắn họ không thể “ thủ tiêu ” tù binh được. Tôi nhìn đồng hồ 2 giờ chiều Ngày 30 Tháng 3 Năm 1975. Tiếng mở cửa phòng với sự xuất hiện trở lại của tên có vẻ là chỉ huy của lực lượng điạ phương đã bắt Tôi . -- Anh ra ngoài và “khẩn trương chuẩn bị hành quân đi về Trại giam. Chúng tôi đã hoàn thành công tác bước đầu v…” Tôi muốn bật cười ra tiếng, vì cái lối nói nghe trái tai, ngộ nghĩnh của hắn. Tôi vừa bước ra sân cũng là lúc các tên lính Bắc Việt mặt mũi non choẹt (khoảng 16 – 18 tuổi) đang đi tới, đi lui nhắc nhở các quy định trên đường “hành quân về trại tù binh ” và --- Anh nào cố tình làm sai quy định sẽ bị xử lý ngay ---. Thấp thoáng ở đầu sân trường Tôi nhìn thấy hình dáng của Phán, Tịnh và Quan. Khoảng gần 3 giờ chiều, đoàn tù binh bắt đầu rời khu vực Mỹ Khê Non Nước, trong sự bố trí canh giữ, nghiêm ngặt của nhiều đơn vị chánh quy quân Bắc Việt. Trong 30 năm của đời sống, chưa bao giờ Tôi cảm nhận được sự nhục nhã đến ê chề, tủi thẹn đến tê tái cả người, khi bị dẫn giải qua những khu phố của TP Đà Nẵng, trước hàng đoàn người dân, đứng dọc theo lộ trình tù binh đi qua với những lời bàn tán khen, chê, chỉ chỏ, cười đùa, có kẻ còn thốt ra những lời chướng tai, ngụ ý cho đáng đời lính ác ôn tuy nhiên cũng có những ánh mắt đỏ hoe ái ngại, lặng lẽ quay mặt, che dấu những giòng lệ thương cảm cho thân phận “ cá chậu, chim lồng ” trong đó có cả thân nhân của họ. Tôi không trách những con người vô tình, thiếu sự hiểu biết, trong hoàn cảnh gió chiều nào, che chiều ấy của buổi giao thời với những bất chợt thay đổi trong nghiệt ngã và không tưởng ; có trách chăng là trách chính chúng tôi những người với các mỹ từ đẹp đẻ là chiến sĩ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã không vuông tròn trách nhiệm bảo quốc, an dân, để mất đi một phần lãnh thổ của Miền Nam trong tinh thần chủ bại và hổn loạn. Quân sử nào sẽ ghi lại đầy đủ nổi đau thương, mất mát không đáng có và nhục nhả nầy? Đoàn tù binh cuối cùng được đưa vào giam giữ ở Trại Hòa Cầm, đây là nơi trú đóng của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 3 Bộ Binh VNCH, các dãy doanh trại hầu như đều còn nguyên vẹn ngoại trừ một vài chổ có khói nhỏ bốc lên do việc thiêu hủy hồ sơ. Sau khi tất cả tù binh đã vào bên trong, ở 2 cổng ra vào, được ngăn chận lại bởi các cuộn dây kẽm gai khoanh tròn (concertina) với một vài lính chánh quy mang súng AK47 đứng gác, các thành phần áp giải lần lượt rút đi. Trong khu vực rộng lớn của doanh trại cũ, các tù binh bắt đầu thoải mái đi tìm bạn bè cùng đơn vị, tiếng gọi trong ngạc nhiên, tiếng cười trong mừng rỡ khi gặp lại nhau để biết rằng bản thân và những người quen biết vẫn còn sống.Tôi ước tính có vào khoảng 4,000 – 5,000 tù binh đủ các quân binh chủng bị giam giữ tại đây. Gần 6 giờ chiều thì Tôi gặp lại hầu hết các sĩ quan đầu não thuộc TĐ9 gồm có Đ/ Úy Tịnh Tr Ban 3, Đ/Úy Phán ĐĐT/ĐĐ2, Tr/Úy Lưu minh Quan ĐĐT/ĐĐ1, Đ/Úy Lê hồng Quang ĐĐT/ĐĐCH, Tr/Úy Công ĐĐT/ĐĐ4, T/Úy Xuân Trưởng Ban 2 (phần Th / Tá Lộc TĐPhó và TR/Úy Ba ĐĐT/ĐĐ3 thì ngày hôm sau mới gặp lại nhau ở ngoài phố chợ Đà Nẵng ). Chúng tôi quy tụ lại, chọn một khu vực riêng biệt để cùng nhau bàn bạc, phải làm gì khi có cơ hội. Tôi bảo T / Úy Dương thanh Xuân đi vòng quanh, tìm hiểu, nghe ngóng các tin tức từ các quân nhân khác, cũng như để ý đến việc bố trí canh gác của Viêt Cộng. Khoảnghơn 6 giờ tối, có một nhóm quân Bắc Việt đến với những xe GMC tịch thu được chở theo rất nhiều quần áo trận còn mới, lấy được từ các kho dự trữ của Quân Đoàn 1. Họ phân phát cho những tù binh nào chỉ có áo thung, quần ngắn (sau nầy mới biết họ có chủ đích muốn quay phim để tuyên truyền, làm lũng đoạn thêm tinh thần chiến đấu của quân ta). Màn đêm dần buông xuống, mọi người kiếm chổ ngã lưng trên các băng ghế dùng cho các tân binh trong quân trường, với bụng đói meo và khát nước . Tiếng T/ Úy Xuân thì thầm bên tai Tôi, báo cho biết về sự canh phòng lỏng lẻo của bọn Việt cộng (Theo sự nhận xét của Tôi thì quân Bắc Việt hoàn toàn không quan tâm đến tình hình tù binh trong giai đoạn nầy, khi các cánh quân tiến công của họ chưa bao giờ gặp sự kháng cự mãnh liệt của quân ta. Mọi nỗ lực và quan tâm của họ trong lúc nầy là “đánh lấy Sài gòn ”. Những chiến thắng bất ngờ đến với họ, qua các cuộc rút quân vội vã, không kế hoạch chu đáo của ta để rồi sau đó trở thành những thất bại mang tính hệ thống giây chuyền ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của mọi quân nhân ). Tôi nói với T/ Úy Xuân ngày mai chúng ta sẽ tìm cách trốn ra khỏi chồ nầy .Tôi hỏi Xuân có gặp hay thấy B1 Phụng hay không, Xuân cho biết không thấy. Tôi nghĩ có lẽ Phụng đã trốn được. Trong ánh sáng chập chờn của các ngọn đèn thiết lập chung quanh căn cứ, Tôi thầm nghĩ, thế là thêm một đêm dài sống trong suy tư với chập chùng vấn vương, thương nhớ. Ký ức chợt hiện về trong trí nhớ mới đây thôi, chưa đến 60 ngày, BCH / TĐ 9 đóng quân ở bải biển Mỹ Thủy, trong dịp Tết Nguyên Đán Ất Mão 1975 (11 / 2 / 1975 dịp nầy Th / Tướng, Tư Lệnh SĐ, có đến thăm TĐ9 và Pháo Đội C / TĐ1 PB của Tr / Úy Nguyễn văn Tuấn ) được sự chấp thuận của Sư Đoàn, Tôi đón gia đình từ Sài Gòn ra thăm, sau các ngày Xuân. Tôi xin phép Lữ Đoàn đưa gia đình đi Đà Nẵng để thăm cậu em của YT (Ng Chí Thiện Radio Bolsa, Nam California, cũng là anh của nghệ sĩ hài Chí Tài), lúc bấy giờ đang phục vụ ở Sư Đoàn 3 BB / Ban quân nhạc tại Trại Hòa Cầm nầy), trong vai trò của một sĩ quan trung cấp, Tôi được sự tiếp đón nghiêm chỉnh, lịch sự, hữu ích của toán quân cảnh gác cổng BTL / Sư Đoàn 3 BB, đã giúp cho việc thăm gặp dễ dàng và nhanh chóng. Thế mà nay, vật đổi sao dời, mọi chuyện thay đổi như trong giấc mơ, Tôi dõi mắt nhìn lên khoảng không gian vô tận trên cao với muôn vàn ánh sao lấp lánh, Tôi tự hỏi đâu là ngôi sao số mạng của mình, liệu nó có trở thành ánh sao băng quá sớm, trong giải ngân hà sáng chói, rực rỡ, ở tận cuối trời phương Nam và ngôi sao nào sẽ đưa lối, dẩn đuờng Tôi tìm về tổ ấm như ánh sáng nhiệm mầu của một thuở xa xưa, dẩn dắt con người đến với các Đấng thiêng liêng. Tôi thiếp đi, trong văng vẳng đâu đây tiếng gọi thương yêu của con trẻ cùng tiếng thở dài não ruột của thiếu phụ Nam sương . Phố chợ Đà Nẵng - May mắn lần thứ nhất. Ánh sáng ban mai rọi chiếu khắp nơi, báo hiệu một ngày mới bắt đầu trong sự ồn ào như ong vở tổ, khi toàn thể tù binh trở dậy, sau một giấc ngủ không trọn vẹn. Mọi người tụ tập thành từng nhóm theo đơn vị cũ hay bạn bè quen biết. Mối quan tâm chung của tất cả tù binh là: Việc gì sẽ xãy ra trong ngày hôm nay? Số phận tù binh sẽ được giải quyết như thế nào? Vấn đề ẩm thực sẽ ra sao? v…v… Th/úy Xuân trở về sau khi đi thu thập tin tức tình hình (ám số chuyên nghiệp của B 2) cho biết, hiện nay chỉ có vài tên du kích đứng gác ngoài cổng. Tôi bảo Xuân: ban ngày lộ diện, khó trốn sự truy đuổi, nên cố gắng tiếp tục tìm lối thoát dọc theo hàng rào phòng thủ ở mặt trước của Trại (ít có nguy hiễm hơn bởi các bãi mìn xung quanh Trại). Không ngờ sự may mắn đầu tiên đến với tù binh chúng tôi. Khoảng 11 giờ trưa, có một xe GMC chở đến 4 - 6 giỏ cần xé đựng cơm, cá khô. Sau khi chuyển giao các thứ hàng cho bọn du kích gác cổng (bọn lính chánh quy Bắc Việt đã rút đi trong đêm), xe tiếp tục chạy đi. Tù binh chúng tôi để ý, theo dỏi diển biến tại cổng gác, thấy mấy tên du kích tụ họp, bàn tán với nhau khoảng 10 phút, có 2 tên đi vào sát hàng rào ngăn cách, thông báo tù binh cho người ra nhận các giỏ cơm, tù binh bắt đầu lớn tiếng chất vấn tại sao số lượng tù binh thì nhiều mà chỉ có mấy giỏ cơm thì làm sao cho đủ…v…v, tiếng náo động phản đối, càng lúc càng to nghe vang rền cả khu vực. Bọn du kích canh giữ, không biết phải xử trí như thế nào trước làn sóng la hét phản đối của tù binh. Sau cùng cả toán du kích lẳng lặng kéo nhau bỏ đi mà không có bất cứ phản ứng gì ; thế là tất cả tù binh cũng tự động tan hàng theo sở thích từng nhóm hay đơn vị cũ. (Thứ hai 31 / 3 / 1975 ). Hội tụ và may mắn lần thứ hai .- Nhóm chúng tôi khi rời khỏi Trại giam giữ Hòa Cầm, hướng về phố chợ Đà Nẵng gồm có: Tôi, Tịnh, Phán, Xuân Quan, cùng một số quân nhân TĐ9 khác. Trên đường đi vì cần có tiền để xử dụng, khi mọi sinh hoạt của Đà Nẵng còn tương đối bình thường với sự lo lắng, e ngại của những người dân trong một thành phố mới bị chiếm đóng. Tôi phải bán đi chiếc đồng hồ Seiko 5 và Phán phải bán sợi dây chuyền mang trên cổ, cũng may không bị những người mua ép giá, cho nên có tiền chia nhau xài tạm (ký ức của Phán và Xuân). Ly cà phê đen đá và tô mì quảng đầu tiên sau 36 tiếng đồng hồ làm thân tù binh với những lo lắng “chết người” đã được mọi người trong nhóm tận tình chiếu cố . Tôi thả hồn theo làn khói thuốc lá mỏng (Tôi vừa mua được gói thuốc lá Ruby quân tiếp vụ) được khéo léo nhả ra một cách chuyên nghiệp, cuộn tròn như hình chữ O đang quyện vòng, xoay quanh, nhảy nhót trước mặt, cố thoát sự kìm hãm để tan dần trong bầu không khí .Tôi tự nghĩ, “một vật thể vô tri như thế mà còn muốn có được sự tự do, huống chi là con người ”. Tôi lẩm bẩm nói với chính mình: Trốn, bằng mọi cách phải trốn, tìm đường về phương Nam!!!. Xuân xoay người hỏi Tôi: Anh Tư nói cái gì? Tôi trả lời: không có chi. Anh sẽ bàn thảo với mọi người sau nầy. Trên đường đi chúng tôi luôn tránh né những nơi mà từ xa, chúng tôi có thể thấy bóng dáng của bọn quân Bắc Việt (phân biệt qua quần áo) hay là bọn du kích, mặc dù việc chặn xét trên đường đi hầu như không có (.- theo nhận xét của Tôi, trong thời điểm nầy mọi hoạt động của thành phố Đà Nẵng chưa bị bọn “xâm chiếm” kiểm soát được hoàn toàn. Đúng nhất phải nói: “Đà Nẵng là của trên Trời rơi xuống” mà bọn Bắc bộ phủ chưa bao giờ nghĩ tới, đến khi “lượm được” cho vào túi mà chẳng biết phải làm gì!“ Sau khi mất Đà Nẵng, kể như quân lực VNCH đã mất hơn phân nửa lực lượng. Đáng buồn hơn nửa là khi sự tan rã xảy ra tại mặt trận miền Trung, thì chỉ riêng tại Quảng Trị, Huế và Đà Nẵng, quân lực VNCH đã có sẳn kho lương thực và đạn dược đủ để chiến đấu trong vòng ít ra là một năm. Trích trong: Cái chết của Nam Việt Nam. Tác giả Phạm kim Vinh. Trang 320 giòng 6 – 11 ”Khoảng 2 giờ chiều, chúng tôi có mặt tại các con phố chính của TP Đà nẵng như là: Đại lộ Độc Lập, đường Bạch Đằng (chạy dọc theo sông Hàn), đường Lý Thường Kiệt, đường Quang Trung…vv… Từ các con đường giao điểm nầy, những con người ngơ ngơ, ngác ngác, ăn mặc không giống ai, chỉ nhìn qua là biết “phe ta” do quần áo dân sự xin được, cái dài, cái ngắn, cái rộng, cái hẹp, lại thêm khi nói chuyện thì rõ ngay là dân gốc miền Nam. Mọi người cứ thế mà đi lên, đi xuống, rồi lại đụng đầu nhau ở một góc phố cũ vừa bước qua để : “Nhìn nhau nói chẳng nên lời. Lệ ứa tim đau nổi đoạn trường”. Tại các con phố chính ấy, chúng tôi tình cờ gặp lại Th/ tá Lộc Tiểu đoàn phó, Hạ sĩ Thương (người Huế) là cần vụ của Th / tá Lộc cũng như “tái ngộ” Đ/ Úy Trần Văn Hên (ĐĐT / ĐĐDuyên hải / TDYTTB ). Tôi hỏi thăm Anh Lộc thì được biết là ĐĐ3TĐ9 “bỏ cuộc ” trước áp lực, ngày càng gia tăng truy đuổi của quân Bắc Việt khi trên đường thực hiện kế hoạch đã được giao phó. Tôi có hỏi về tình trạng của ĐĐT / ĐĐ3 là Tr/ Úy Ba thì Anh Lộc cho biết còn sống nhưng không biết bị bắt giữ ở đâu. Tôi chuyện trò và nói đùa với Đ/Uý Hên là: ĐĐT Duyên hải mà bị mắc cạn mới là chuyện lạ. Tôi còn hát đùa “Mình có 3 thằng“ rơi rớt ”chốn binh đao, biết tìm nơi phương nào, cho thoát đám quân gian” (Tôi, Lộc và Hên cùng tốt nghiệp Khóa 17 Thủ Đức, cùng về TQLC Tháng 11 Năm 1964 với tổng số là 36 Chuẩn Úy). Sau một lúc hàn huyên thăm hỏi, chúng tôi mới bàn về việc phải tìm nơi trú ngụ tối hôm nay (31 / 3 / 1075 ). Tôi chợt nhớ có Tr/ Uý Phạm Minh Sơn (Không Quân chuyển về, phụ trách XLTV Ban 3 / TĐ9, khi Đ/Úy Tịnh từ LĐ 258 chưa thuyên chuyển vể TĐ9 và sau này làm phụ tá B3 cho Đại / Úy Tịnh, vốn là người nguyên quán Đà Nẵng ). Tôi nhắc về Sơn nhưng tiếc thay chẳng ai biết nhà của Sơn ở đâu trong TP Đà Nẵng. May mắn lại đến với chúng tôi khi chính hạ sĩ Thương (cần vụ) cho biết là có thân nhân quen biết ở Xóm đạo Thanh Bồ , Đà Nẵng nên sẵn lòng hướng dẫn chúng tôi về đó; cùng lúc ấy Đ/ Úy Hên gặp lại Tr/ Uý Quân (ĐĐ Bảo Toàn / TĐYTTB) cùng một quân nhân cũng có thân nhân, gần trong khu vực Xóm đạo; thế là chúng tôi cùng dẩn nhau về đấy; tuy nhiên khi về đến nơi, mới biết là “nhà trống người không” vì thân nhân quen biết của Thương và quân nhân trong ĐĐBT, đều đã bỏ nhà chạy “tỵ nạn” nơi khác, Quân và Thương phải đi hỏi thăm các người hàng xóm quen biết, sau cùng có được chìa khóa để vào nhà. Nhằm tránh sự “tò mò dòm ngó” của các người dân chung quanh, trong cảnh “tranh tối, tranh sáng” nầy, hơn nữa “cẩn tắc vô áy náy”, chúng tôi quyết định chia ra thành 2 nhóm ở 2 nơi riêng biệt, chỉ cách nhau một con đường. Chúng tôi tắm giặt thoải mái, ăn uống no đủ, nhờ vào các thực phẩm còn sót lại trong nhà. Sau đó mạnh ai nấy lăn ra ngũ bù, mọi phiền muộn, lo lắng, giờ đây tạm bỏ lại đâu đó trong ngăn kéo của thời gian, để tận hưởng cái hạnh phúc, khi biết mình vẫn còn sống và tự do dù trong vòng “kềm kẹp” của quân thù. (Hết phần 2)
(Tự truyện 20 ngày là tù binh và vượt thoát từ Đà Nẵng đến Vũng Tàu từ 30/3/1975 đến 18/4/1975)
Thủ đoạn dối trá của Cộng sản và may mắn lần thứ ba: Sáng sớm hôm sau thứ Ba 1 tháng 4 năm 1975, chúng tôi rời nơi trú ngụ sau một đêm say ngủ, không chập chờn vì ác mộng, trở lại các con đường hôm qua, tìm một quán bên đường, mỗi người một ly cà phê đầu ngày và thu thập tin tức, tình hình thời cuộc với các diển biến không vui “quân ta rút lui chiến thuật khỏi Quy Nhơn ” v…v….Tôi bàn với mọi người “phải vượt thoát” tìm về phương Nam, bằng cách lợi dụng khi “địch quân” còn mãi mê cuộc tiến công, chưa tổ chức hoàn hảo việc kiểm soát, giam giữ chặt chẽ các “tù binh”, cũng như các cấp chánh quyền hành chánh địa phương chưa quen việc, áp dụng chiến thuật “họ tới đâu thì chúng ta theo sau lưng họ, cho đến khi có cơ hội vượt tuyến”. Khoảng giữa trưa, trước khi chúng tôi trở về nơi tạm trú, qua tin truyền miệng, sau đó từ các xe phóng thanh do bọn “theo đóm ăn tàn” làm tài xế, chạy quanh trong TP Đà Nẵng với lời kêu gọi trình diện của Ủy ban quân quản Đà Nẵng, cho các quân nhân của Sài Gòn trong 3 ngày, kể từ ngày 2 tháng 4 năm 1975 đến ngày 5 / 4 / 1975.Chúng tôi trở về chổ ở với tâm trạng phân vân, đắn đo trong sự cân nhắc của câu hỏi: có nên ra trình diện hay không? Chưa ai trong số chúng tôi có được một kinh nghiệm về Cộng Sản, từ trước đây cho đến ngày triệt thoái không bài bản, mỗi khi chạm trán với bọn họ là chỉ có “Bằng, Bằng” như cao bồi Mỹ “bắn chậm thì chết”. Nay phải ra trình diện họ, rồi thì kết cuộc sẽ ra sao đây? Còn như không trình diện, nếu mai đây, có sự can thiệp của quốc tế, ngưng bắn lần nửa, rồi trao trả tù binh, số phận sẽ ra sao, khi không có tên trong danh sách trình diện thật là nan giải. Sau cùng mọi người, phó mặc cho số phận với kết luận “Ai sao mình vậy ”. Nổi xúc động đến nghẹn ngào, khi trở về nơi trú ngụ nhìn thấy buổi cơm chiều đã được Hạ sĩ Thương nấu nướng, bày biện, đem từ nhà bên cạnh đến cho mọi người cùng ăn với cơm nóng, canh ngon, dù đạm bạc nhưng nói lên tấm lòng chân chất của người quân nhân dưới quyền trước đây. Chúng tôi ngỏ lời cám ơn sự chân tình của Thương “Em chỉ mong, mấy ông thầy làm răng, mà về được trong Nam là em vui rồi”, Thương nói.
Bản đồ Phan Rang.
Buổi tối đến, Tôi triệu tập phiên họp, bao gồm tất cả mọi người ở cả 2 nhà tạm trú. Tôi đưa ra ý kiến “dung hòa” và “ăn chắc” như sau : “Theo thông báo, chúng ta có 3 ngày để trình diện, như vậy ngày mai chúng ta đi trình diện cho có tên trong danh sách với tên tuổi, cấp bậc, chức vụ chính xác. Sau đó chúng ta còn 2 ngày để tìm phương cách vượt thoát khỏi TP Đà Nẵng, trước khi bị “gom bi”, mọi người đều đồng ý (riêng Đ /úy Tịnh Ban 3 và Hạ sĩ Thương vì nguyên quán ở Miền Trung, cho nên sau nầy ở lại, không tìm đường về Nam) rồi giải tán, đi ngủ. Hôm sau Thứ Tư Ngày 2 Tháng 4 Năm 1975, chúng tôi cùng nhau trở ra phố, đến các địa diểm quy định đã được thông báo để trình diện, chỉ sau vài giờ, mọi người đều có trong tay giấy đã trình diện với UBQQ Đà Nẵng, trong đó có đầy đủ các thông tin cá nhân trước đây, khi còn phục vụ cho chính phủ Sài gòn, họ cũng bắt khai luôn nơi đang tạm trú hiện nay (sau nầy mới biết họ thanh lọc danh sách, ngay trong ngày hôm đó và họ cho lực lượng an ninh đến “bắt nguội” ngay trong đêm). Chúng tôi lang thang trong TP Đà Nẵng cho đến buổi chiều, mới trở về lại nơi trú ngụ, lúc nầy trong nhà của Quân đã có thêm một số người vừa mới “vượt thoát” từ Huế vào, cho nên chổ ở trở nên đông đúc chật kín. Đ/ Úy Hên thấy thế nên bảo Tôi và Lộc di chuyển qua nhà bên kia đường ở tạm. Nhờ thế chúng tôi thoát khỏi màn “ bắt nguội giữa đêm của an ninh Cộng sản…!!”
. .. (Trích thư của Đ/Úy Hên : Vào khoảng 1 giờ sáng, có nhiều chiếc xe gắn máy, dừng lại trước nhà, có tiếng đập cửa thật mạnh, tiếng người tiếp theo: “Ban quân quản, mau mở cửa kiểm tra.” Vị Th / tá Bộ binh ra mở cửa, tôi nghe có tiếng người bước vào nhà, từ chổ tôi nằm không nhìn thấy cửa chính, tôi nghe một giọng nói miền Bắc, “Ở trong nhà nầy, ai là Thiếu tá Lâm tài Thạnh, Thiếu tá Nguyễn văn Lộc, Đại Úy Trần văn Hên, lính thủy đánh bộ, chúng tôi cần kiểm tra.” Tôi nghe vị Thiếu tá Bộ binh trả lời: “Hồi chiều, ba ông nầy có dùng cơm ở đây, sau đó nói đi ra phố, giờ chưa thấy trở về”, sau câu trả lời, bọn Việt cộng ập vào hẳn trong nhà thật nhanh, rọi đèn, người vợ của vị Th / tá Bộ binh nằm ngủ phía ngoài cùng các đứa con nhỏ, vội vàng nói nhanh với tôi: ông nằm yên để tôi xử trí; từ trong bóng tối ở sâu dưới chân cầu thang lầu, tôi thấy có ba tên mặc quần áo quân chánh quy Bắc việt, 2 tên mang AK47 rọi đèn lục soát, tên còn lại mang K54 tiến về phía cầu thang, rọi đèn vào ba cái mùng của gia đình vị Th/ tá Bộ binh, khi thấy bà vợ của vị Th / Tá đang cho con nhỏ bú, nên không rọi đèn, tìm kiếm tiếp nơi chân cầu thang, mà bước vòng trở lại phía trước và đi thẳng lên lầu. Họ rọi đèn, lục soát khắp nhà khoảng 10 phút, tất cả kéo ra ngoài, nổ máy xe, rời căn nhà tôi đang tạm trú ). Khoảng gần 4 giờ sáng Đ/úy Hên bằng cửa sau, chạy qua nhà chúng tôi đang ngủ, báo động tình hình nguy hiểm và chúng tôi quyết định “vượt thoát” khỏi Đà nẵng lúc 5 giờ sáng cùng ngày. .- Đường trường xa, ta quyết đi cho đến cùng .- Vượt thoát : Ngày N – Thứ Năm 3 tháng 4 năm 1975 .- Trong hơi lạnh ban mai của Ngày N .- vượt thoát; chúng tôi âm thầm rời nơi trú ngụ, sau khi nói lời chia tay Đ/U Tịnh và Thương. Chúng tôi phân thành 2 nhóm, đi cách nhau khoảng 100 mét, lấy Quốc lộ 1 làm trục lộ chính và căn cứ vào các cột mốc cây số dọc theo đường đi, để biết khoảng cách các nơi sẽ phải đến. Nhóm 1 gồm có Tôi, Tr/uý Quan, T / Uý Xuân, nhóm 2 còn lại là Th / tá Lộc, Đ/úy Phán. Riêng nhóm của Đ / Úy Hên, Tr /Úy Quân (ĐĐBảo toàn) vì có người quen dự trù kế hoạch vượt thoát bằng đường biển, nên chúng tôi cũng chia tay (sau nầy Tr/ Úy Hên về tới Vũng tàu trước Tôi hai ngày). Mọi người trong 2 nhóm của chúng tôi đều đồng ý, trên đường đi, ai thoát được sẽ tiếp tục cuộc hành trình, để có thể mang tin tức sau cùng về cho thân nhân những người bị bắt giữ lại. Dù chưa biết, kết cuộc sẽ ra sao với đoạn đường trước mặt dài đăng đẳng, có nhiều bất trắc chờ đợi, chúng tôi đều cảm thấy tinh thần phấn chấn, sau các ngày được nghỉ ngơi, ăn uống tạm đầy đủ và nhất là với viển ảnh được tự do và đoàn tụ .Trong suốt khoảng đường từ nơi trú ngụ ra đến ngoại ô Đà Nẵng, chúng tôi chưa bị chặn xét bởi các chốt kiểm soát của Việt Cộng, mặc dù trên QL1 các đoàn xe ngụy trang, chở quân Bắc Việt cùng các vũ khí nặng bao gồm các loại súng phòng không 37 – 57 ly di chuyển rầm rộ và liên tục. Trời vừa rạng sáng chúng tôi tới cầu Đỏ bắt qua sông Thu Bồn, chúng tôi phải tạm dừng lại nơi đây vì cây cầu nầy đã bị không quân VNCH phá hủy, nhằm ngăn chận bước tiến quân của Việt Cộng. Một số lượng đông đảo dân chúng và các loại xe chuyên chở dân sự cũng đang tập trung ngay đầu, mọi người cùng nhau chờ công binh Cộng sản bắt cầu phao nổi để qua sông, nơi đây có một nhóm nhỏ quân Bắc Việt canh gác với sự hời hợt và lỏng lẽo. Qua thăm hỏi, tìm hiểu, được biết đại đa số là thường dân chạy trốn chiến trận từ các vùng của tỉnh Quảng Ngãi nay đang hồi cư. Chúng tôi cùng nhau trà trộn vào với dân chúng và chờ đợi. Khoảng gần 8 giờ sáng, có lệnh cho người đi bộ qua cầu, cả 2 nhóm chúng tôi vượt nhanh qua phía trước, trong khi bọn lính chánh quy, mãi mê nói chuyện với các o xứ Quảng. Cách cây cầu khoảng 500 mét, chúng tôi tạm ngừng lại với ý định chờ đón các xe dân sự xin quá giang. Tôi nhìn thấy cột mốc chỉ đường ghi Quãng Ngải 115 km. Tôi thực sự không tin ở mắt mình và tự hỏi sẽ đi bộ trong bao nhiêu ngày mới tới được Quảng Ngải đây! Sau cùng thật là may mắn, chúng tôi được một chủ xe, có lòng tốt đã cho chúng tôi lên xe, quá giang mà không lấy tiền, khi nghe chúng tôi tả oán đủ thứ, Mẹ già, vợ trẻ, con thơ, đang trông chờ tin tức ở Nha Trang. Khi lên xe, chúng tôi chia nhau ngồi lẩn lộn với các hành khách. Phần Tôi thì ngồi phía trước cách tài xế một dãy ghế và sát cửa sổ. Từ chổ ngồi Tôi nhìn ra phía sau, anh Lộc và Phán đưa ngón tay cái, biểu tỏ mọi chuyện tốt đẹp trong khi Quan và Xuân thì đánh đu trên tấm bửng sau xe. Sau gần 3 giờ xe chạy bon bon trên đường, các cột mốc cây số lùi dần về phía sau, để cuối cùng, một cột mốc loang lổ vết đạn ghi Quảng Ngãi 45 km. Xe bắt đầu chạy chậm và ngừng hẳn khi có một nhóm đông người đi diển hành trên quốc lộ với các biểu ngử cầm tay, nội dung chào mừng cách mạng thành công trong tiếng tiếng hoan hô, đã đảo v…v…Tôi nghĩ thầm: chổ nầy “hắc ám” đây vì là “hang ổ ” của Quân khu 5 Việt Cộng .Trong quá khứ Tôi đã từng tham dự hành quân trong các vùng chung quanh Tỉnh Quảng Ngãi trong vai trò là Trung đội trưởng của ĐĐ1 / TĐ2 TQLC vào những năm 1965 – 1966. Tôi không xa lạ gì với các địa danh Mộ Đức, Đức Phổ, Ba Tơ, Nghĩa Hành, Sơn Tịnh, Trà Bồng. Ba Gia, Trà Khúc, Núi Thiên Ấn v…v… *** Thêm chia tay xót xa bên cạnh sự may mắn lần 4 .- Ngay trước tấm bảng viết hàng chử Ủy ban cách mạng Xã Châu ổ Huyện Bình sơn, là một toán du kích 7 - 10 tên đứng canh gác, mọi sự lưu thông đều bị chận lại xét hỏi. Chúng tôi không còn lối thoát nào khả dỉ có thể lẩn trốn, vì không ai biết trước có trạm kiểm soát trên đường, bây giờ chỉ biết trông chờ may rủi và số mạng của mỗi người. Khi xe vừa ngừng lại cho du kích kiểm tra, Tôi nghe câu nói của người tài xế đại khái: Dấu được cứ dấu. Nghe nhưng chưa kịp hiểu ý, Tôi xoay người nhìn về phía sau xe thì thấy bóng Quan và Xuân nhảy xuống khỏi xe, rồi biến mất trong nhóm người biểu tình đông đúc, cùng một lúc Tôi thấy có 2 tên du kích đi dọc theo hai bên hông xe, từ phía sau đi lần ra phía trước, đến băng ghế ngồi của Th/Tá Lộc và Đ/Úy Phán, chúng ngưng lại hỏi chuyện gì đó. Tôi thấy Lộc và Phán lấy tờ giấy trình diện ở Đà Nẵng cho chúng xem, sau đó Tôi thấy chúng chỉa súng AK 47 vào hai người và ra hiệu cho Lộc và Phán xuống xe và chúng gọi thêm người đến canh giữ, đồng thời tiếp tục đi đến chổ Tôi ngồi, Tên du kích hỏi : “Anh nầy có giấy tờ gì không? Trong tích tắc Tôi kịp nhớ câu nói bâng quơ của người tài xế, cộng thêm sự việc vừa xảy trước mắt cho Lộc và Phán ). Tôi trả lời với giọng mệt mỏi, để giảm bớt âm hưởng miền Nam .- Không có Tôi là lao công đào binh ở Đà Nẵng, cách mạng thành công, mở cửa nhà tù thả Tôi và mấy ông cách mạng, rồi bảo Tôi đi về nơi trú quán!.- Tên du kích hỏi tiếp : Lao công đào binh là cái gì? Tôi giải thích : Tôi trốn quân dịch, không chịu đi lính, nên bị bắt đi tù !! Tên du kích hỏi một câu ngu ngốc - thiệt không- và bỏ đi. Người tài xế nhìn Tôi cười thông cảm khi xe vừa nổ máy, chạy qua khỏi trạm kiểm soát. Tôi nhìn lui lại phía sau xe, thấy các tên du kích đang áp giải Th/ Tá Lộc và Đ / úy Phán trở lại con đường, xe đã chạy qua. Xe chạy khoảng 100 – 200 thước. Tôi lên tiếng xin người tài xế dừng xe lại “Sao vậy đã thoát rồi còn quay trở lại đó làm gì ? người tài xế ngạc nhiên hỏi, nhưng cũng đạp thắng và ngưng xe lại. Tôi chỉ trả lời cám ơn, xuống xe, đi ngược lại về nơi trạm kiểm soát với các ý tưởng đơn giản: “Phải biết, xem bọn du kích đưa Lộc và Phán đi đâu, đối xử thế nào, còn mọi chuyện khác thì tùy cơ ứng biến cho dù như đã nói ở phần trên, trước khi rời Đà Nẵng, mọi người đều đồng ý, trên đường vượt thoát, người nào may mắn thì cứ tiếp tục cuộc hành trình, để mang tin tức hữu ích cho gia đình, thân nhân đang trông chờ ”. Tôi đi thật nhanh vì sợ mất dấu những tên du kích. Tôi thở phào nhẹ nhõm khi thấy bóng dáng Lộc, Phán cùng toán du kích đang chậm rãi đi theo con đường mòn trong xóm sát cạnh Quốc lộ 1. Tôi len lỏi đi theo phía sau, qua các đường mòn có các ngôi nhà lá, trống trước, hở sau với một khoảng cách tương đối, để không bị phát hiện sau cùng toán du kích ngừng lại, vào một ngôi nhà có các hàng cây bao quanh, hình như là trụ sở Ủy ban gì đó của họ. Tôi trốn sau các lùm cây phía trước ngôi nhà và theo dõi tình hình. Thời gian khoảng 30 phút Tôi thấy cả 4 tên du kích kéo nhau bỏ đi. Tôi đoán có lẽ chúng đi ăn cơm vì nhìn bóng mặt trời đã quá đỉnh đầu. Tôi chờ thêm khoảng 10 phút để chắc chắn bọn chúng không bất ngờ trở lại. Tôi quyết định dứt khoát, phải giữ bình tỉnh, giả như là du kích vào thật nhanh, ra thật lẹ. Tôi lên tiếng gọi, khi còn cách cửa ra vào 2 – 3 thước “Anh Lộc, Phán, tụi nó bỏ đi hết rồi, ra lẹ, đi cho mau với tôi ”. Tôi lập lại 2 – 3 lần mới thấy Đ/Úy Phán buồn bả, ủ rũ, đi ra nói với Tôi : Anh Lộc nói : Anh Cả đi, đi. Anh Cả có thoát thì thông báo tin tức cho gia đình tụi em. Suýt chút nữa là Tôi “ chưởi thề ” tuy nhiên, Tôi chỉ nói : Tụi nó đi mất hết rồi, sợ cái gì mà không trốn đi? Đ/ Úy Phán cho biết : mấy tên du kích nói nếu trốn đi, khi bị bắt lại thì chúng sẽ xử bắn, trước đó chúng cũng đã bắn chết một người. Nhìn dáng điệu cam chịu của Phán khiến Tôi bùi ngùi vì Tôi và Phán đã từng phục vụ chung ở TĐ 2 Trâu điên, khi Tôi là ĐĐPhó ĐĐ1 (1968) thì Phán là Trung đội Trưởng ở ĐĐ4, Phán tốt nghiệp K 25 TĐ là một sĩ quan có nhiều triển vọng (Sau nầy khi gặp lại Đ/ Uý Phán trong Đại Hội TQLC 2008 tại Nam California, khi nhắc lại chuyện ở Bình Sơn 3 / 4 / 1975. Tôi thông cảm cho Anh Lộc và Phán trong tình hình bó buộc lúc bấy giờ). Không còn lựa chọn nào khác. Tôi lặng lẽ, thất thểu bước nhanh ra khỏi khu vực giam giữ với nổi buồn nặng trĩu trong lòng và câu hỏi: mai đây nếu Tôi có thoát được trở về, sẽ trả lời với các thân nhân của Anh Lộc và Phán thế nào đây? Có ai tin rằng Tôi đã hết lòng, quên cả nguy hiểm bản thân vì bè bạn và chiến hữu. Thôi thì chỉ cầu mong các đấng thiêng liêng độ trì cho cả hai tai qua nạn khỏi. Trở ra lại quốc lộ 1, Tôi tính toán, khoảng cách đến Quảng Ngãi là 20 cây số, nếu phải đi bộ thì khoảng 3 tiếng đồng hồ là tới. Tôi cấm cúi rảo bước trên đường, trong ánh nắng, nóng hâm hấp của miền Trung, nhìn trước mặt, đường còn xa diệu vợi, khách độc hành, ai thấu hiểu bước cô đơn; mới sáng nay còn đông đủ anh, em, bạn hữu, trong niềm tin vượt thoát sẽ thành công mà nay chỉ còn lại đơn độc. Tiếng kèn xe làm Tôi giật mình và câu hỏi lớn của ai đó trên xe: - Anh ni đi mô và xe ngừng lại. Tôi đi ngang qua đầu xe, gặp người tài xế tuổi trung niên. Tôi ngỏ ý xin đi nhờ xe ra Tỉnh lỵ Quảng ngãi, đưọc sự đồng ý, Tôi lên xe khoảng 30 phút sau Tôi bước ra khỏi xe, nói lời cám ơn, thả bộ đi về hướng chợ lúc nầy Tôi đang ở trong phạm vi ngoại ô Tỉnh Quảng Ngãi. Tôi tiếp tục đi cho đến khi vào đến cổng chào là cửa ngỏ của thành phố. Quảng Ngãi là nơi có nhiều kỷ niệm của TĐ2 TQLC. Đặc biệt trong vụ việc Phật giáo Miền Trung (1966 ). Trước đó TĐ 2 đã có lệnh trở về Hậu cứ để nghĩ dưỡng quân sau 3 tháng tăng phái cho Quân đoàn 2 quân nhân trong đơn vị đều vui vẻ, mừng rở, còn bao nhiêu tiền đều mang ra mua kẹo mè xửng và nón lá bài thơ đề làm quà tặng người thân sau một chuyến đi xa. Sáng hôm sau, ra phi trường Quảng Ngãi, chờ khoảng 1 giờ đồng hồ thì có nhiều máy bay từ Sài Gòn đáp xuống, lại toàn là C47 của Không quân VNCH với 2 chiếc máy bay dân sự của hàng không Việt Nam. Lính nhà ta chẳng biết chuyện gì, cứ có lệnh là “xung phong” lên máy bay liền, bay chưa tới 30 phút toàn bộ máy bay hạ cánh xuống phi trường Đà Nẵng, xong có lệnh “án binh bất động”, nằm chờ lệnh trong phi trường để “mấy quan to nói chuyện phải quấy với nhau”. Lính nhà ta “vỡ mộng” chỉ có nước chưởi thề, thế là bao nhiêu “kẹo mè xửng, nón lá bài thơ” trở thành nạn nhân của sự giận dữ. Thế mới gọi là đời lính. Tôi vào một quán nhỏ bên đường Quốc lộ 1 uống một ly nước và tô phở nấu theo cách miền Trung. Tôi nhìn đồng hồ trong quán ăn hơn 3 giờ chiều. Trong cảnh vắng lặng cuả một thành phố vừa mới đổi chủ, Tôi nhận thấy mọi sinh hoạt của thành phố đầy áp sự uể oải, cầm chừng, ngại ngùng, bẻn lẻn như một cô dâu mới về nhà chồng, chưa biết phải làm gì, thỉnh thoảng chỉ thấy vài chiếc xe đạp, vài người đi bộ có vẻ lạc loài như Tôi, chắc là thuộc phe ta .Trước khi rời quán ăn, Tôi hỏi thăm người đàn ông chủ quán : có biết một ngôi chùa nào gần nhất trong khu vực nầy hay không ? .Trong e dè cẩn trọng đối với người lạ, ông ta chỉ cho Tôi, đường đi đến chùa Hội Phước trong khu phố gần trung tâm chợ. Tôi bước ra khỏi quán, đi lần theo Quốc lộ 1 cũng là con đường chính hướng về phố chợ, được một khoảng khá xa, nhận thấy mặt trời chưa lặn bóng e rằng khi tới Chùa còn sớm, khó xin chổ trú ngụ qua đêm, nhìn thấy một tàn cây có bóng mát bên đường .Tôi ngừng lại, ngồi xuống lề đường, mông lung suy nghĩ vẫn vơ: không biết ngày xưa, khi Hạng Võ thất trận 10,000 tử đệ bỏ đi, thì tình trạng có thê thãm như Tôi hôm nay hay không ?. Một bóng dáng quen thuộc từ đàng sau, đang cắm cúi đi tới, Tôi nhận ra đó là Tr / Úy Quan, khi Quan đến gần chổ Tôi ngồi, trông thấy Tôi, Quan kêu lớn trong sự ngạc nhiên “Anh Tư, anh không bị bắt lại hả?” Tôi ra hiệu cho Quan tiếp tục đi, rồi Tôi rảo bước theo Quan, sau khi thật nhanh quan sát cẩn thận chung quanh. Đến một ngã tư đường, chúng tôi dừng lại, chọn một nơi kín đáo và trao đổi các tin tức liên quan đến các thành viên của hai nhóm. Tôi cho Quan biết về tình trạng của Lộc và Phán, Tôi hỏi Quan về Xuân, Quan cho biết đã lạc mất Xuần khi cả hai nhìn thấy bọn du kích ra hiệu cho xe ngừng lại, nên vội vã nhảy xuống xe, hòa nhập vào đám đông đang đi tuần hành, lẩn trốn trong các xóm nhà ven quốc lộ, sau cùng vuợt qua các cánh đồng ruộng, đi khỏi phạm vi vùng du kích kiểm soát. Việc gặp lại Tr/ Ú Quan bất ngờ trên lộ trình vượt thoát, giúp tinh thần Tôi thêm phấn chấn, lạc quan vì từ nay có bạn đồng hành trên chặng đường thiên lý, tìm về phương Nam, bên cạnh đó Quan sẽ là chứng nhân sau nầy cho cuộc hành trình đường trường xa nầy. (cuộc sống đôi lúc có những bất ngờ, ngạc nhiên thú vị vì Tôi chợt nhớ: Tr/ Úy Quan là người có cùng nguyên quán tỉnh Ba Xuyên (Sóc Trăng) và là bạn học cùng lớp với cậu em thứ năm của Tôi, như vậy từ nay trên đường vượt thoát chắc sẽ có nhiều điều để nhắc nhớ về xứ sở. Buổi chiều đang xuống dần, ánh nắng le lói nhạt mờ, báo hiệu một ngày sắp hết .Tôi cho Quan biết ý định tìm nơi trú ngụ qua đêm ở ngôi chùa Hội Phước trong nội ô chợ Quảng Ngãi, do người chủ quán ăn đã chỉ dẩn, sau vài lần hỏi thêm các khách qua đường, chúng tôi đến nơi. Đây là một ngôi chùa rộng lớn với chiếc cổng tam quan bề thế, bên trong sân chùa đã có rất nhiều dân chúng, đa số là phụ nữ và trẻ em, hỏi ra, mới biết là dân “tỵ nạn chiến loạn ” từ các nơi dồn vào đây, tạm nương nhờ cửa Phật, chờ thời cuộc cho phép sẽ hồi cư về lại Bình Định (Quy Nhơn), thật là một cơ hội tốt cho chúng tôi lẩn lộn, hòa nhập vào đám đông, tương đối an toàn. Chùa có một giếng nước sâu do các tăng nhân trẻ phụ trách việc phân phối nước, Tôi và Quan mượn được một chiếc chiếu lớn cũng như được cấp phát cho mỗi người một ổ bánh mì chay. Ăn xong, cả 2 co ro quấn mình trong chiếc chiếu lớn, bên hông phía sau căn bếp của Chùa. Chúng tôi thì thầm to nhỏ về chương trình dự tính ra đi ngày mai . (Trước đó qua tin tức thu thập được từ các chị phụ nữ nấu bếp, chúng tôi được biết các lực luợng chánh quy Bắc Việt đang bị cầm chân ở tuyến phòng ngự Khánh Dương trước khi vào Nha trang ). Tôi báo cho Quan biết, căn cứ vào các cột mốc cây số, chúng tôi đã vượt thoát được khoảng 120 cây số chỉ trong một ngày, một kết quả đáng mừng trên đường “vượt thoát” của ngày đầu tiên, Quan ngỏ ý, đề nghị tìm lối đi ra phía biển, để kiếm phương tiện ghe, thuyền đi cho nhanh và tránh được các trạm chốt kiểm soát sẽ gặp phải, nếu đi theo Quốc lộ. Tôi nghe Quan nói cũng có lý, tuy nhiên suy nghỉ lại Tôi thấy bất lợi, vì lộ trình tìm đường đi ra hướng có các làng đánh cá, có ghe đi biển, rất dễ bị phát hiện vì không lẩn lộn được vào trong dân chúng, thêm nửa với giọng nói âm hưởng chính gốc miền Nam, trong túi không có tiền thì làm sao mua chổ đi, cũng như khi đã lên thuyền, bị chặn xét là bó tay hết xoay sở. Trong khi xử dụng lộ trình đi bộ sẽ khó bị phát hiện, do việc lẩn lộn vào đám đông, xe cộ qua lại nhiều, dể cho việc quá giang và thăm hỏi tin tức tình hình, miễn sau chỉ cần để ý, khéo luồn lách, nhảy khỏi xe (nếu quá giang được xe) trước khi xe vào các nơi trọng điểm trung tâm, sau đó băng đồng đi vòng, tránh né, như thế xác suất trốn thoát thành công rất cao. Sau các phân tích của Tôi, Quan hoàn toàn đồng ý. Chúng tôi rơi vào giấc ngũ, trong lành lạnh của những cơn gió nhẹ, đánh dấu ngày thứ 5 “tù binh và vượt thoát”, thiếu nệm ấm, chăn êm. Văng vẳng đâu đây tiếng mõ chuông từ chánh điện, xen lẩn tiếng đọc kinh chú Quan thế âm, hình như Tôi mỉm cười trong ánh hào quang sáng chói của Đức thế tôn (lúc nầy Tôi chưa chuyển đạo) . ***.- Quảng ngãi với Núi Thiên Ấn, Sông Trà Khúc và lần may mắn thứ năm : N+1, 4 / 4 /1975. Tiếng la hét, ồn ào của trẻ con, tiếng gọi nhau của người lớn làm chúng tôi giật mình tỉnh giấc, xuyên qua các cành cây trên cao, mặt Trời đã ló dạng nơi phương Đông, trong căn bếp Chùa có nhiều chị phụ nữ đang phụ lo việc cơm, nước với các tăng nhân mặc áo màu nâu. Qua câu chuyện trao đổi của họ, chúng tôi được biết : tuyến phòng ngự của QLVNCH do Nhảy dù, Trung đoàn 40 Sư đoàn 22 Bộ binh v…v.. tại Khánh Dương là một thị trấn nhỏ, nằm ở độ cao1000m, cạnh quốc lộ 21 nối liền vùng cao nguyên Ban Mê Thuộc với vùng duyên hải Tỉnh Khánh Hòa, Nha Trang, cách Quốc lộ 1 khoảng 60 km, đã thất thủ ngày hôm qua (sau này qua các tài liệu, bài viết sưu tầm, được biết tuyến kháng cự Khánh Dương tan rã vào Ngày 2 Tháng 4 Năm 1975). Thế là thêm một trở ngại và thất vọng cho chương trình vượt thoát. Chúng tôi mang chiếc chiếu trả lại cho Chùa thì được biết Chùa sẽ có thí thực (cơm miễn phí) cho mọi người. Khoảng 8 giờ sáng, chúng tôi rời Chùa cùng với một số dân hồi cư về lại Bình định Quy nhơn, hành trang tương đối ấm lòng với 2 nắm cơm vắt lớn, 1 hủ chao lớn, một bình nhựa chứa nước. Chúng tôi đi ngược lại các con đường cũ để ra Quốc lộ 1, để tránh bị để ý Tôi và Quan giử khoảng cách, cùng lẩn lộn trong nhóm đông phụ nử và trẻ con. Các khu phố chợ, các con đường trong nội ô Quảng Ngãi của buổi sáng sớm, trông nhợt nhạt, u ám, buồn tẻ, âu lo, căng thẳng vốn dỉ phải có trong các nơi vừa mới bị chiếm đóng. Theo bước chân của dòng người hồi cư, chúng tôi tới một toà nhà lớn sau mới biết đó là toà hành chánh cũ của Tỉnh Quảng Ngãi, tại đây có dán một thông báo, viết bằng tay, nét chữ không ngay hàng, thẳng lối với nhiều lổi chánh tả. Theo quy định ghi trên bảng thông báo: muốn hồi cư phải ghi danh với các loại giấy tờ của chánh quyền cũ. Đọc xong Tôi và Quan kín đáo, vội vã nhanh chóng ca bài tẩu vi thượng sách. Chúng tôi quay lại Quốc lộ 1, quyết định bắt đầu hành trình đi bộ, tuy nhiên chưa ra khỏi ngoại vi Tỉnh Quảng Ngãi thì “đụng đầu” ngay Trạm kiểm soát hổn hợp gồm du kích địa phương và quân chánh quy Bắc Việt. Lại một lần nửa chúng tôi phải thối lui, vì địa thế trống trải không thể đi vòng băng ruộng mà không bị phát hiện. Chúng tôi đành phải trở lại khu phố chợ, tìm chổ vắng ẩn náo, dự trù chờ chiều tối khi không còn chốt kiểm soát thì sẽ “vượt thoát”. Thật không ngờ bọn Việt Cộng lại duy trì, trạm kiểm soát nầy liên tục cả ngày lẩn đêm. Tối đến chúng tôi xin tá túc dưới mái hiên của một ngôi nhà lớn, bên cạnh Quốc lộ 1, được chủ nhà cho mượn đầy đủ mùng và mền, nên chúng tôi qua đêm có được cảm giác bình yên, ấm cúng. Buổi sáng khi gõ cửa gọi chủ nhà, để hoàn trả mùng mền đã mượn gặp ngay một phụ nữ trẻ, tay cầm một đỉa cơm chiên lớn, vừa đưa cho Tôi vừa rơi lệ nói nhỏ, “Tôi biết 2 Anh là lính Sài Gòn, đây là nhà cha, mẹ tôi, ông xã tôi ở Sư đoàn 22, cũng chưa thấy tin tức không biết sống, chết ra sao.” Tôi cầm dĩa cơm chiên nói vài lời an ủi, cám ơn; rồi vội vã bước ra ngoài sân, trong lòng nặng trĩu, khi chợt nghĩ đến hoàn cảnh tương tự ở nơi chốn thành đô hoa lệ kia, cũng có người đang mỏi mắt trông chờ, đợi ngày trở về của Tôi. Ngày kế tiếp, chúng tôi tiếp tục canh me trạm kiểm soát, đến buổi chiều chúng tôi quay lại ngôi chùa Hội Phước, hưởng phước của nhà Chùa thêm lần nữa. Tôi không muốn ghé qua ngôi nhà đã ngủ tối qua, vì chỉ để buồn thêm, hôm sau cũng chưa có gì sáng sủa, Tôi và Quan cứ lang thang qua các con đường nhỏ, trong nội ô Tỉnh Quảng Ngãi mà chưa biết tìm lối thoát như thế nào. Sáng của ngày thứ ba dậm chân vì bị đấp mô (N+4, Thứ Hai 07 / 4 /1975) thì “thần may mắn” lại mỉm cười với chúng tôi. Trong khi đang thả bộ dọc theo một con đường nhỏ, vắng người qua lại, gần trung tâm chợ, nơi có vài ba căn nhà bỏ trống, không thấy người ở, Tôi chợt nhìn thấy một tấm biển nhỏ bằng đồng ngay trước cổng vào, Tôi cúi xuống cầm lên xem: Tiểu đội quân cảnh tư pháp Quảng Ngãi. Tôi bỏ tấm bảng xuống và rủ Quan đi vào trong nhà, sau khi nhìn chung quanh không thấy có bóng dáng người qua lại, bước vào căn nhà chính, thấy có ba cái bàn làm việc và các loại giấy tờ nằm tung toé trên mặt sàn gạch. Sau một lúc xem xét, chúng tôi tìm thấy có 2 giấy chứng nhận, ghi đầy đủ các chi tiết liên quan đến 1 người tên là B1 Cao văn Nghiêm Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 4 Sư đoàn 2 Bộ binh, còn giấy chứng nhận kia ghi tên Hạ sĩ Lâm hoàng Dân Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 4 Sư đoàn 2 BB. Tôi cầm cả 2 giấy chứng nhận, hối thúc Quan rời khỏi căn nhà thật nhanh. Ra đến đường lớn, Tôi đưa ngay giấy chứng nhận là Hạ sĩ Lâm hoàng Dân cho Tr/ Úy Quan (Tôi sợ theo thói quen khi nghe kêu họ Lâm sẽ dễ bị giật mình) phần Tôi giữ giấy chứng nhận là B1 Cao văn Nghiêm. Đã có giấy chứng nhận của chánh quyền cũ với dấu mộc đàng hoàng, chúng tôi vội vả đến ghi danh với Ban hồi cư của Việt Cộng ở toà hành chánh cũ. Một phụ nử khoảng 40, cạp lưng có súng K54, cổ quấn vải dù ngụy trang, tiếp chúng tôi trong cái nhìn thiếu thân thiện, mắt liếc đọc 2 tờ giấy chứng nhận, chúng tôi hồi họp trong chờ đợi và khấn nguyện Phật Bà Quan âm, khi thấy bà ta chẳng hạch hỏi, lấy 2 mẩu giấy có in sẳn, viết lên đó, ký tên xong gọi một thanh niên trẻ, bảo mang 2 giấy đi đường nầy đóng dấu. Khi đưa trả lại cho chúng tôi 2 tờ giấy đi đường, có dấu mộc đóng rõ ràng của Ùy Ban Quân Quản Quảng ngãi, bà ta còn căn dặn bước qua bên kia đường sẽ có “các đồng chí lo cho chế độ ăn uống và cơ động” (lần đầu tiên nghe, Tôi cố nhịn cười, sợ bà ta nổi quạo là tiêu tùng). Tôi và Quan bước ra khỏi toà hành chánh cũ mà như đang bay bổng trên mây vì từ nay đã có “bùa hộ mệnh”. Chúng tôi qua bên kia đường thì đã có ngay vài tên du kích, hỏi xem giấy, sau đó là cấp phát cho tiêu chuẩn ăn là mấy ổ bánh mì cũ, kèm với một nhúm ruốc khô và nước uống, xong xuôi các tên du kích bảo chúng tôi ngồi chờ xe để “cơ động”, trong lúc nầy cũng đã có khoảng 15 – 20 người dân cũng đang chờ xe để hồi cư về Bình Định và Nha Trang (1- 3 / 4/ 1975 cả 2 nơi nầy cũng di tản để Việt Cộng chiếm mà chẳng có trận đánh nào cả). Khoảng 12 giờ trưa thì có xe chở khách cũ, có lẽ bị trưng dụng, đến chở hết số người đang chờ đợi, trong đó có Tôi và Quan. Xe cũng phải ngưng lại tại chốt kiểm soát, mọi người xuất trình giấy đi đường cho 2 tên du kích, Tôi đoán là học sinh trung học mới chạy theo Việt Cộng, chúng xem giấy, nhìn Tôi mà không nói gì, xong cho xe chạy. Từng hàng cây bên đường từng cột cây số chỉ khoảng cách lui dần sau lưng, để phía trước là con đường rộng mở của “ tự do và đoàn tụ ”. Xe chạy theo Quốc lộ 1, lần lượt lướt qua các địa danh quen thuộc Mộ Đức, Đức Phổ, v… v…với các trận đánh vang tiếng một thời ở Ba Gia, Thạch Trụ của QLVNCH nói chung và TQLC nói riêng. Khoảng cách thu ngắn theo từng thời gian trôi qua, Tôi nói đùa với Tr/ Úy Quan : “khi nào cuộc hành quân nầy chấm dứt, Hạ sĩ cho B1 Nghiêm nầy đi phép vợ sanh nghe”. Quan trả lời “hổng dám đâu”, rồi cả hai chúng tôi cùng cười, có lẽ “Cười là tiếng khóc khô không lệ”. Xe tự nhiên chạy chậm lại và ngừng hẳn khi vào ranh giới của Tỉnh Bình Định Quy Nhơn, mọi người lo lắng, cùng nhau lên tiếng hỏi tài xế, không có tiếng trả lời, chỉ thấy tài xế xuống xe đi kiểm tra nơi đầu máy, xong quay lại, nổ máy xe nhưng vẫn không chạy được, sau vài lần thử, tài xế thông báo xe hư hộp số, không chạy được, ông ta đã cho người phụ xế quá giang xe ngược chiều xin “chi viện” (nghe thật tức cười) xe khác. Chờ mãi đến tối, thế là mọi người cùng ngũ lại trong xe. Đúng là “phước bất trùng lai, họa vô đơn chí”. Sáng hôm sau (N+5 - 8 / 4 / 1975 -) chờ mãi đến mệt mõi, chán nản mà không thấy xe thay thế, trong khi những xe chạy qua không ngưng lại vì đã đông đầy người. Tôi và Quan quyết định bỏ xe đi bộ với một số người có ít hành lý Sau hơn 5 giờ đi bộ, khi bóng chiều đang ngã dần về phương Đông, chúng tôi vào tới địa phận tỉnh Bình Định Quận Hoài Nhơn, chúng tôi cãm thấy mệt mỏi sau chặng đường dài đầu tiên phải đi bộ, nên bàn nhau kiếm chổ tá túc qua đêm, tuy nhiên ghé hỏi mấy chổ khi thấy thái độ không thân thiện “truy hỏi” đủ thứ chuyện, chúng tôi đành phải bỏ đi đi nơi khác, cuối cùng thấy một ngôi nhà không có dấu hiệu sinh hoạt, sau khi lên tiếng kêu hỏi, không thấy có ai trả lời, chúng tôi biết là nhà vắng chủ, có thể ở tạm qua đêm ở phía hàng hiên trước nhà. Tôi và Quan bẻ các cành cây làm chổi, quét sạch các rác rưới trước cửa, xong đi quan sát vòng quanh khu nhà, tìm đuợc một lu nước có nấp đậy bằng gổ cùng vài ba trái dừa khô bỏ lăn lóc kế bên, thế là chúng tôi có cách giải quyết cho bao tử, xong xuôi Tôi trải tấm nylon cũ, xin được lúc trên xe, thế rồi chúng tôi qua đêm trong cảm giác không bình yên chút nào của giấc ngũ “ bụi đời ”. Hết Phần 3
Phương Nam, ánh sao nơi cuối Trời, tháng 4-1975, Phần 5:Đường Đi Đã Tới
(03/28/2012)
Cựu MX Lâm Tài Thạnh TĐ 9 TQLC
(Tự truyện 20 ngày là tù binh và vượt thoát từ Đà Nẵng đến Vũng Tàu từ 30/3/1975 đến 18/4/1975) - Phan Rang thất thủ, tạo cơ hội cho “ vượt thoát ” bằng đường biển: N+13, 16/4 /1975 . Khoảng 10 giờ sáng, chúng tôi đang ngồi trao đổi với nhau về chiến trận ở Phan Rang, đột nhiên có tiếng xe Honda thắng gấp, ngừng trước nhà, một thanh niên trẻ hấp tấp, chạy vào nhà kêu lớn: Anh Bình, Phan Rang đã mất rồi (lúc nầy chúng tôi mới biết tên thật của chủ nhà). Mọi người trong nhà, cùng kéo nhau chạy ra gặp một thanh niên trẻ, với các câu hỏi dồn dập: “Phan Rang mất thiệt không, ai nói”. Cậu thanh niên sau khi hết thở dốc chậm rãi kể lại: Khoảng 10 giờ sáng, tại các phố chợ Cam Ranh, Việt cộng cho rất nhiều người, chạy xe gắn máy với các loa cầm tay, thông báo là họ đã chiếm được Phan Rang. Nghe xong tin tức, Tôi không biết nên vui hay buồn. Cảm nhận và phán đoán của Tôi hoàn toàn sai, sự sụp đổ từng mãng các tuyến kháng cự của quân lực VNCH, đặc biệt là phòng tuyến Phan Rang, nơi có mối liên hệ sâu đậm với TT Thiệu còn không giữ được thì rõ ràng đó là những chỉ dấu cuộc chiến đang đi vào thế “bất lợi” nếu người Mỹ và Quốc tế không can thiệp như thỏa thuận đã ký kết trong Hiệp định ngưng bắn 27/1/1973. Trong khi Tôi còn đang suy nghĩ vẫn vơ, Ông Bình la lối, thúc hối vợ con mau chóng lên xe để chạy về Phan Rang nhằm biết tin tức Cha, Mẹ ông còn kẹt lại. Lẽ dĩ nhiên Tôi và Quan cũng tháp tùng, khi xe đến Miếu thờ, chạy qua cây cầu, hôm qua đã bị Không quân ta oanh kích, cầu vẫn còn nguyên vẹn, ngoại trừ các hố bom chung quanh cách cầu 50 – 100 mét. Tôi suy đoán cuộc oanh kích chỉ nhằm giải tỏa bom để trở lại căn cứ cho nhanh. Khoảng 1130 trưa, xe tới Quận Du Long thì phải chạy chậm lại, vì trên đường ngoài các đoàn xe, chở quân tăng viện của Bắc Việt từ hướng QL 20, QL 21 đổ xuống, còn có rất nhiều xe dân sự hồi cư. Cuối cùng anh Bình ngừng xe ở ngoại ô TP Phan rang, chỉ đường cho chúng tôi, trước khi xe chạy Anh chỉ nói võn vẹn 5 chữ “phe ta, chúc may mắn” . *** Bến cá Phường Tấn thành, Phan Rang. Lần may mắn sau cùng .- N+14, 17/4/1975. Chúng tôi đi bộ, từ từ vào thành phố Phan Rang, mọi ngã đường đều có quân Bắc Việt hiện diện mà không kiểm soát dân chúng đi qua lại, riêng các công sở cũ đều có lính BV canh gác với cờ ngụy trang là MTGPMN. Đang đi gần đến một toà nhà lớn, chúng tôi thấy một đám đông dân chúng, đổ xô chen lấn chạy vào trong, với những tiếng la hét, kêu réo: “Vào lấy gạo, vào lấy gạo, nhiếu lắm v…v…” Tôi và Quan nhìn nhau, rồi không ai bảo ai tự động chạy theo sau đám đông, vào trong chúng tôi thấy có rât nhiều bao gạo loại 50 kg, chất chồng cao đến gần đụng trần nhà. Tôi và Quan mỗi người kê vai, vác ngay 1 bao gạo (lúc nầy chưa tới 30 tuổi nên vác bao gạo 50 kg là chuyện nhỏ) và chạy trở ra lối cũ, băng qua đường, xong bỏ 2 bao gạo xuống. Quan nói nhanh “Anh Tư coi chừng, Em chạy đi lấy một bao nữa.” Khoảng 10 phút Quan trở lại với một bao gạo khác trên vai, phía sau lại có thêm 4 người cũng đang vác gạo. Khi đến chổ Tôi đang đứng, lúc Tôi còn chưa biết những người theo sau Quan là ai thì đã nghe : ”Thiếu tá, tụi em ở Tiểu đoàn 9”. Cả người Tôi run lên, một luồng điện chạy dài từ đỉnh đầu xuống tận chân, trong một cảm giác khó diển tả; lần đầu tiên sau 18 ngày sa cơ thất thế, giấu diếm thân phận, mang một tên giả hoàn toàn xa lạ, nay bổng có người “gợi lại giấc mơ xưa” bảo sao Tôi không bồi hồi, sung sướng trong ngạc nhiên. Thầy, trò, kéo nhau núp sau các hàng cây to trao đổi tin tức. Trong số 4 người có Th/Úy Trung là Trung đội Trưởng Trung đội 3 ĐĐ 1 của Tr /Úy Quan. Ba người còn lại thì có Hội là người quê quán tại Phan Rang còn 2 quân nhân kia (không còn nhớ tên) quê quán ở Bình Tuy chung với T/ Úy Trung, cả bốn người cũng mới vừa nhập vào Phan Rang, trước chúng tôi khoảng 1 giờ. Phần Hội khi nghe chúng tôi nói ý định, tìm phương tiện ghe đi biển để vượt thoát về phía Nam thì Hội đã sốt sắng mời Tôi và Quan theo Hội về nhà; cùng lúc ấy có vài ba thương buôn đến hỏi mua gạo, họ ra giá khá cao là 10.000 đồng cho mỗi bao gạo 50 kg, thế là chúng tôi có được 30.000 khi nhận tiền xong, Quan đưa thêm cho Tôi 5000 bảo để dành, phòng khi Anh Tư cần đến. Việc buôn bán gạo vừa xong, chúng tôi chia tay với T/Úy Trung và 2 quân nhân kia. Phần chúng tôi đi theo Hội, đi được khoảng 100m, chúng tôi nghe có nhiều tiếng xe gắn máy, chạy đến chổ mấy người vừa mua gạo, nhìn lại thấy họ có mang vũ khí, thế là chúng tôi đi thật nhanh và quẹo qua đường khác theo hướng dẩn của Hội. Sau khi đi bộ khoảng 15 phút, qua rất nhiều đường phố, chúng tôi tới một căn nhà trệt nhỏ nằm trong một hẽm lớn, đây là nhà Cha, Mẹ của Hội. Sau phần giới thiệu của Hội chúng tôi được Cha, Mẹ và cả gia đình giành cho sự tiếp đãi nồng nhiệt, ân cần, thân mật sau đó việc ăn uống, tắm rửa, nghỉ ngơi đều chu đáo, đầy đủ. Buổi chiều tối, chúng tôi có dịp ngồi nói chuyện riêng với ba của Hội khi biết chúng tôi có ý định tìm phương tiện vượt biển để về Nam, Ông đã sốt sắng tán thành và hứa ngày mai ông sẽ đi tìm các người bạn quen, có ghe đi biển, để lo cho chuyến đi của chúng tôi. Theo ông, thì TP Phan Rang mới bị tiếp thu (ông tránh dùng chữ giải phóng vì sợ làm phiền lòng chúng tôi) việc kiểm soát còn lỏng lẻo, nên việc vượt thoát bằng đường biển có mức độ thành công rất lớn. Ông khuyên chúng tôi yên lòng đi ngủ, các chuyện khác để ông lo. Thời điểm nầy Ba của Hội vào khoảng 45 – 50 tuổi cho nên Tôi gọi bằng anh. Tôi và Quan ngủ trong một chiếc mùng lớn, trắng tinh, còn thơm mùi xà bông giặt, bên ngoài tiếng muỗi bay vo ve Tôi khẽ bảo với Quan “hết cơn bỉ cực đến hồi thới lai”. Chúng tôi chìm vào giấc ngủ với mộng đẹp hội ngộ và đoàn tụ . Khi chúng tôi thức dậy thấy Hội đã ngồi chờ sẳn, hường dẩn chúng tôi đi rửa mặt, xong xuống bếp nơi đã có 2 tô hủ tiếu và 2 ly cà phê đen. Chúng tôi ngỏ lời cám ơn Hội, trong khi chúng tôi đang ăn, Hội báo cho biết, Ba của Hội đã ra đi từ sáng, để lo việc kiếm ghe đi biển cho chúng tôi, Ba của Hội cũng căn dặn chúng tôi phải ở trong nhà, chờ kết quả không nên đi ra đường. Khoảng giữa trưa trong dáng điệu hấp tấp nhưng nét mặt thì vui vẻ, rạng rở, Ông ra dấu cho Tôi, Quan theo Ông vào buồng ngủ, nói nhỏ bên tai chúng tôi, báo cho biết là đã tìm được một chủ ghe chịu chở về Vũng Tàu với giá là 10.000 đồng một người. Ông hỏi chúng tôi có tiền hay không, nếu không có thì Ông sẽ tính cho. Chúng tôi cám ơn lòng tốt của Ông, cho Ông biết chúng tôi có đủ tiền (do bán gạo đã lấy được) để trả cho chuyến đi. Thế là chúng tôi giao cho Ông 20000 để Ông đi thanh toán cho chủ ghe là người quen biết với Ông, nên chúng tôi không phải lo bị lường gạt. Ông lại ra đi và trở về khoảng 1 giờ sau. Ông cho biết chuyến đi sẽ bắt đầu lúc 3 giờ chiều. Ông khuyên chúng tôi ăn cơm sớm và đi nghĩ dưởng sức cho chuyến đi. Chúng tôi làm sao có thể an tâm nghỉ ngơi được, trước canh bạc sau cùng nầy, một canh bạc “ được ăn cả, ngã về không ”, bao nhiên công sức, mồ hôi với những ân tình không còn cơ hội đền đáp, trên suốt chặng đường “ vượt thoát ” đã qua. Cả hai chúng tôi không thể nào ăn hết chén cơm với những món ăn đặc sản do các chị của Hội, trong đó Tôi còn nhớ có cô Loan với đôi mắt to, đen láy, trên khuôn mặt lúc nào cũng đượm một nét buồn (qua lời kể của Hội, cô Loan có người yêu là một Th/Úy Biệt động Quân, khi Phan Rang thất thủ, cho tới khi chúng tôi tới nhà, cô chưa có được tin tức về T/úy BĐQ đó). Khoảng 2 giờ 30, chúng tôi rời nhà, sau khi cám ơn, chào từ biệt Mẹ và các chị của Hội. Theo sự dẩn đường của ba Hội và Hội, đi khoảng 30 phút, chúng tôi tới một khu vực có một tấm bảng ghi Bến cá Phường Tấn Thành, Ba của Hội bảo chúng tôi vào trong quán cà phê, kêu nước uống và chờ ông trở lại, trong khi Hội thì đi vòng vòng bên ngoài quan sát động tỉnh, vào trong quán Tôi nói ngay với Quan: Anh thấy chuyến đi nầy sẽ thành công vì đã có điềm báo trước của 2 chử Tấn Thành .Tôi giải nghĩa nhanh cho Quan: tấn là tới, thành là đạt được có nghĩa là đi tới sẽ thành công. Quan trả lời: hy vọng giống như anh Tư nói. Uống chưa hết ly cà phê thì đã thấy Ba của Hội và Hội đã xuất hiện trước cửa quán, ra dấu hiệu cho chúng tôi rời quán, Quan nhanh chóng trả tiền, Tôi và Quan lẻo đẻo theo sau, chúng tôi tới một bến đậu của một con thuyền có chiều dài từ 10 mét – 15 mét, hiện đang có vài phụ nữ đang đi xuống thuyền bằng tấm ván bắt ngang. Ba của Hội ngừng lại, nắm tay Tôi và nói nhỏ: Th/Tá xuống thuyền đi và chúc Th/Tá đi bình an. Tôi cám ơn và khi Hội đến bắt tay Tôi từ giả .Tôi rút vội số tiền còn lại trong túi (5000$) nhét vào tay Hội, đi xuống thuyền phía sau là Quan với nét mặt buồn buồn . Khi vào trong thuyền, chúng tôi được ông chủ thuyền hướng dẩn đi thẳng về phía sau gần buồng lái, ông ta nói cho phụ nữ và trẻ con ngồi phía trước để dể qua mặt bọn canh gác ở đầu vàm (nơi sông đổ ra biển). Khoảng gần 4 giờ chiều, thuyền bắt đầu rời bến với tổng số trên 20 người cùng đi. Thuyền chạy chầm chậm trên sông, hướng ra biển khoảng 15 phút, thuyền phải chạy chậm lại, chủ thuyền phải trả lời các câu hỏi của các “lính Bắc Việt” đang đóng chốt tại đầu vàm. Sau khi lên tiếng hăm doạ sẽ bắn theo nếu thấy thuyền chạy về hướng Nam, chúng để thuyền tiếp tục chạy, từ từ tăng tốc độ, đến khi ra dến biển, sóng đánh nhấp nhô đưa con thuyền lên xuống, Ông chủ tàu hỏi trống không: bấy giờ đổi hướng được chưa. Tôi và Quan cùng cười nói “đổi đi, bây giờ nó có bắn thì trúng hà bá, chứ làm sao trúng tụi mình được”. Quan xoay người lại nắm lấy tay Tôi lắc lắc và nói: mình, mình thoát rồi Anh Tư ơi, trong nghẹn ngào của mừng vui. Thuyền chỉ chạy cách bờ khoảng 3 -5 cây số, cho nên chúng tôi có thể quan sát thấy rõ cảnh vật xa xa trong bờ. Khi thuyền vừa đi ngang Mũi Né (chủ thuyền cho biết) lúc khoảng 6 giờ chiều, chúng tôi chứng kiến màn “đấu súng” giữa các chiến hạm của Hải quân cùng với quân chánh quy Bắc Việt từ trong bờ bắn ra, nơi đây thuộc tỉnh Bình Thuận, thuyền chúng tôi đang chạy ở giữa 2 làn đạn nếu xui xẻo có quả đạn nào ngắn tầm thì thiệt là số con rệp, chúng tôi nghe trong khoan phía trước mũi thuyền,đủ các loại kinh cầu nguyện của mấy chị phụ nữ đọc to, át cả tiếng sóng vỗ vào mạn thuyền. Khoảng giữa khuya, thuyền chạy tới đảo Phú Quýnơi đây thuyền phải ngừng lại, cặp vào các thuyền xi măng của Hải quân để cho Hải quân kiểm soát an ninh. Chúng tôi thực sự an tâm thở phào nhẹ nhõm, vì biết chắc chắn chúng tôi đã ở trong hải phận an toàn của VNCH. Tôi tạm ngã lưng vào vách thuyền, ngước mắt nhìn bầu trời cao mênh mông với muôn vàn ánh sao chiếu lấp lánh, trong đó ánh sao nơi phương Nam bây giờ hào quang sáng chói, trông thật gần gũi, đáng yêu của niềm hân hoan sum hợp và đoàn tụ. - Long Hải Vũng Tàu Ánh sao Phương Nam đường đi phải tới: N+15. 18/4 /1975. Mặt trời chưa ló dạng nơi phương Đông cũng là lúc Tôi bị say sóng, nằm vật vã phía sau gần đuôi thuyền để tránh làm dơ thuyền.Thuyền chạy gần 24 giờ thì vào hải phận Vũng Tàu, tuy nhiên vì lý do an ninh, nên tất cả các thuyền từ phía Bắc về, đều phải ghé bến vào Long Hải.Khoảng 3 giờ chiều, chúng tôi đặt chân lên mảnh đất tự do Long Hải.Luồng gió mát lạnh, mang mùi hăng hắc của muối, cùng nổi mừng vui của vượt thoát thành công và trở về từ cỏi chết, làm tan biến ngay các cơn say sóng mới cách đây không lâu .“ Ôi tự do ta chào mi ”,Tôi thầm nói với chính mình: Ba đã về với các con. Bước lên bờ, vừa đi được một khoảng đường ngắn thì đã bị hỏi thăm sức khoẻ, bởi 2 quân cảnh Bộ binh, sau khi cho biết lai lịch và ý định của chúng tôi là muốn về Hậu cứ TĐ 4 TQLC ở Vũng Tàu, họ cho đi và vẫy tay chào tạm biệt. Khoảng 30 phút sau chúng tôi xuống xe, ngay trước cổng ra vào của TĐ4 (Trại Hoàng hoa Thám). Quan vội vã, lấy tiền trả cho người lái xe ôm, vì biết Tôi không còn tiền. Chúng tôi đi vào trạm canh của toán trực gác, nơi đây giờ nầy, chỉ có một người đang làm nhiệm vụ, khi nghe chúng tôi muốn gặp NT Th/Tá Trần ngọc Toàn Tiểu ĐoànTrưởng TĐ 4 TQLC, người lính đang gác cổng hỏi lại: chúng tôi gặp Th/tá Toàn làm gì (trong khi trước đó Tôi đã tự giới thiệu chúng tôi là ai). Có lẽ nhìn cách ăn mặc không giống ai, cộng thêm nét phong trần, tiều tụy của chúng tôi nên “lính ta” mới giỡn mặt. Tôi lập lại một lần nữa cấp bậc và chức vụ của Tôi và yêu cầu đương sự gọi điện thoại thông báo ngay cho Th/ tá Toàn, lần nầy thấy Tôi có vẻ quạo nên đương sự quay diện thoại ngay, trong khi Tr/ Úy Quan đứng kế bên lẩm bầm “lính vô kỷ luật”. Khoảng 5 phút sau, NT Toàn lái xe ra, tay bắt, mặt mừng, xong bảo Tôi và Quan lên xe chở vào BCH/TĐ để dùng điện thoại báo cho BTL/ Sư đoàn HQ biết sự trở về của Tôi và Quan. Nhìn quanh tìm kiếm người lính gác đã biến mất dạng, thay thế là một Hạ sĩ quan lớn tuổi, có lẽ là trưởng điếm canh. Tôi cũng bỏ qua, không kể lại câu chuyện đó cho Th/Tá Toàn. Khi vừa uống xong 2 lon Cocacola, chúng tôi được NT Toàn chở đến BTL/HQ đóng ở bãi Dâu trong căn cứ của quân đội Úc trước kia. Tại Trung Tâm HQ (TOC) Tôi gặp rất nhiều người quen biết, mọi người đều chúc mừng, cho sự trở về của chúng tôi, nhờ thế mới biết là Đ/Úy Hên về trước chúng tôi 2 ngày ,T/Úy Xuân thì về sớm hơn bên cạnh đó cũng đã có khoảng 100 – 200 các quân nhân khác của TD9 trở về an toàn, hiện nay đang bổ sung tạm về các Tiểu Đoàn 14 và 16. Chúng tôi nhận lại quân trang, quân phục đầy đủ (do Cố Trung Tá Nhiều Trg/P 4 cung cấp, Trên đường di chuyển Tù (Sĩ quan cấp Tá 6/1976) từ Bãi Cháy, Hải Phòng lên Yên Bái, để vào Sơn La Bắc Việt, trong các toa xe lửa chở Tù đóng kín Tr/ Tá Nhiều đã tự sát. Khoảng 7 giờ tối, Tôi vào trình diện Thiếu Tướngg Tư Lệnh, sau khi thuyết trình các điều mắt thấy, tai nghe, trên suốt chặng đường “vượt thoát”. Tôi nhận lệnh thành lập lại TĐ9 sau 3 ngày nghỉ phép. Tôi có xin Th/Tg Tư lệnh gởi côngđiện cho các đơn vị, hoàn trả tất cả các quân nhân thuộc Tiểu Đoàn 9 TQLC, trở về hậu cứ ở căn cứ Sóng Thần Thủ Đức để tái lập lại đơn vị. Khi trình diện xong, vừa bước ra ngoài,đã có NT Tr/tá Nguyễn Văn Phán (TĐT/TĐ THD) cùng một số các sĩ quan quen biết (Th/Tá LĐBảo, Đ/Úy LVChâm là bạn cùng K17TĐ) đang chờ sẳn, chở chúng tôi ra chợ Vũng Tàu, đãi ăn một buổi tối thật ngon miệng (nhân đây xin được cám ơn NT Phán, cùng các bạn có mặt trong buổi cơm tối đầy tình nghĩa chiến hữu, kỷ niệm của 37 năm trước nhưng Tây Đô và Tr /úy Quan vẫn nhớ như là mới đây (Trích thư của Tr/ Úy Quan: Trung tá Phán bảo Tây Đô và tôi - cứ ăn uống thoải mái, bù đắp lại nhữngngày vất vã ở miền Trung. Sau buổi cơm tối, Tôi trở về TTHQ (TOC) dùng điện thoại viễn liên liên lạc với Tr/Úy Trung (CHHC TĐ9) chỉ thị thông báo cho gia đình sự trở về của Tôi. Ngã lưng trên chiếc ghế bố dã chiến, để trong một góc của TOC toàn bộ ký ức, cuốn phim tìm về phương Nam của 20 ngày từ tù binh, vượt thoát và thành công lần lượt trở về trong hồi tưởng. Đoạn đường dài 700 cây số, bao gồm biết bao gian nan, cực khổ, hồi họp, lo sợ, bên cạnh là các chân tình của những con người không quen biết nhưng có trái tim nhân ái, rộng mở, đầy ấp tình người cũng là một trong những nhân tố quan trọng giúp cho giấc mơ Phương Nam: Ánh sao nơi cuối trời đã trở thành hiện thực. Tôi rơi vào giấc ngủ, trong văng vẳng tiếng hờn ai oán, kêu đòi khúc kèn truy điệu cùng lá cờ tổ quốc thân yêu của các oan hồn tử sĩ còn vất vưởng đâu đây của biển trời Thuận An Huế, Mỹ Khê Non Nước Đà Nẵng và còn nhiều, nhiều nữa! Xin dành một vài giây phút, tưởng niệm những chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến vinh quang, nhưng nhiều máu và nước mắt của một thời chinh chiến (1964 – 1975) . Thay lời kết: Năm 1980 trong lần được “thăm tù” duy nhất, tại Trại A Hà Nam Ninh, Phủ Lý Nam Định Bắc Việt bởi Mẹ và Anh. Khi chia tay, Mẹ nói nhỏ vào tai Tôi: Số con là số phải ở Tù, Chạy Trời không khỏi Nắng! (Sau đó Bà vượt biển thành công, được định cư ở Mỹ từ năm 1984, Bà mất năm 2003). Ghi chú cuối bài: Xin chân thành cám ơn quý cựu quân nhân Tiểu đoàn 9 TQLC và bạn hữu liệt kê dưới đây về những đóng góp “ký ức quý báu” giúp cho bài tự thuật trung thực, chính xác, không cường điệu, không hư cấu . Đa tạ tất cả quý chiến hữu. 1- Cựu Th/Tá Nguyễn văn Lộc TĐ Phó/TĐ9 (K17TĐ) Florida, US 2.- Cựu Đ/ Uý Lưu văn Phán ĐĐT/ĐĐ 4/TĐ9 Hawaii, US 3.- Cựu Tr/Úy Trương chí Công ĐĐT/ĐĐ 2 TĐ9 Philadelphia US 4.- Cựu T/Úy Trương phước Dĩnh SQTT/TĐ9 Georgia, US 5.- Cựu T/Úy Dương minh Xuân SQ Ban 2 TĐ9 Houston Texas, US 6.- Cựu T/Úy Nguyễn vũ Tuệ SQ Ban 5 TD9 Westminster CA, US 7.- Cựu Đ/ Úy Trần văn Hên ĐĐT/ ĐĐDH TĐYTTB Georgia, US 8.- CựuTr/ Úy Lưu minh Quan ĐĐT/ĐĐ1/TĐ 9 Việt Nam 9.- Cựu Tr /Úy Trương văn Ba ĐĐT/ĐĐ 3/TĐ9, Việt Nam 10.- Cựu Đ/Úy Lê hồng Quang ĐĐT/ĐĐCH TĐ 9 Việt Nam 11.- Cựu T/Úy Hồ Khen SQBan 4/TĐ9, Việt Nam 12.- Cựu Tr/Úy Nguyễn văn Tuấn PĐT/Pháo đội C/TĐ1 PBTQLC San Jose, CA 13.- Cựu Tr /sỉ Vũ văn Tám Hậu trạm TĐ 9, Việt Nam 14.- Cựu Hạ sĩ Nguyễn văn Dần, Biệt kích, Việt Nam 15.- Cựu Hạ sĩ Nguyễn công Ba, Truyền tin ĐĐ1TĐ 9, Việt Nam Riêng cựu Đ/Úy Đoàn văn Tịnh TrBan 3 TĐ 9 đã có đóng góp ký ức trong bài Trận chiến sau cùng của TĐ9 ĐSST 2004 Georgia, US Cựu Mũ XanhTâyĐô Lâm tài Thạnh, Cựu Thiếu tá Tiểu đoàn Trưởng TĐ 9 Mãnh Hổ Thủy Quân Lục Chiến |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.