Viết theo lời kể của
một cô gái người Bắc.
Đương nhiên, tên của
tôi không phải là “Việt Cộng Con” rồi.
Và tôi cũng không phải
là Việt Cộng, xin bảo đảm một trăm phần trăm.
Tên tôi là Trinh, Trần
Thị Ngọc Trinh. Tôi lấy chồng là một người Lính Việt Nam Cộng Hòa. Con trai tôi
tên là Nam, cháu nay đã được năm tuổi rồi. Mỗi lần về thăm nhà, cháu luôn luôn
hãnh diện khoe với ông bà ngoại:
“Ông ơi, bà ơi, cháu
là con của Lính Cộng Hòa đấy.”
Tức là, tôi không có
dính dáng gì đến Việt Cộng cả. Vậy thì tại sao tôi lại có cái tên... “Việt Cộng
Con”?
Theo lời bố tôi kể lại,
bố mẹ tôi quê quán ở Phú Thọ, sau chuyển về Hà Giang. Đến năm 1979 thì mới về
Hà Nội ở. Lúc đầu, gia đình tôi không có "hộ khẩu", phải sống tạm bợ ở
gầm cầu. Hàng ngày, ba mẹ tôi đi ra chợ, bến xe hàng hay là bến xe lửa xuyên Việt
đứng chờ công việc làm, ai nhờ việc gì thì làm việc nấy, thông thường là khuân
vác, đẩy xe, cưa cây... Kiếm được việc làm không phải dễ, vì ba mẹ tôi là dân mới
tới, thường bị đám người sống lâu năm ở chợ tranh dành đuổi đi đừng ở nơi xa chứ
không cho đứng ở gần chợ.
Một hôm, có một đoàn
người gồm đa số là đàn bà từ miền Nam vào, nhờ đẩy hàng đi Hà Giang. Hà Giang
cách Hà Nội cả trăm cây số, đám đầu nậu không biết địa thế, hơn nữa, vì Hà
Giang gần núi, có nhiều sơn lam chướng khí, nên không ai dám nhận đi hàng, bọn
chúng mới gọi bố mẹ tôi đến mà bố thí cho việc làm. Tưởng đi đâu chứ Hà Giang
thì bố mẹ tôi sống ở đó từ nhỏ, biết từng góc rừng, từng con đường mòn xuyên
qua núi. Thì ra đó là những người vợ, con của Lính Cộng Hòa bị đi tù cải tạo. Từ
Hà Nội đến Hà Giang thì có xe hàng, nhưng từ Hà Giang tới các trại tù thì phải
gánh hàng đi bộ nhiều ngày mới tới.
Bố mẹ tôi chịu cực
khổ đưa những người khách hàng đến tận nơi, chờ họ gặp người thân xong xuôi rồi
lại đưa họ trở về ga Hàng Cỏ Hà Nội. Những người này cám ơn bố mẹ tôi và tặng
tiền nhiều lắm. Sau chuyến đi đó, bọn đầu nậu đứng bến có vẻ nể nang bố mẹ tôi,
không dám dành mối như trước nữa. Thực ra, cũng vì không có đứa nào biết đường
đi nước bước ở Hà Giang và những vùng xa xôi có trại tù cải tạo, nên bố mẹ tôi
hầu như được độc quyền đưa đón thân nhân những người tù cải tạo. Những người
này vừa tử tế lịch sự, vừa cho tiền thưởng khá, vì thế, cuộc sống của gia đình
tôi mới đỡ vất vả. Nhờ có ít tiền, bố mẹ tôi mới... mua được hộ khẩu ở Hà Nội
và cho anh em chúng tôi đi học. Trong thời gian đưa đón những người Miền Nam
này, bố mẹ tôi đã được họ tin tưởng, vui vẻ nói chuyện và còn chỉ dẫn cách nấu
những món ăn ở Miền Nam, như là bánh xèo, bánh phồng tôm, chả giò... Đã có một
lần, một nhóm người vì phải mang theo nhiều hàng, lại già yếu bệnh tật, nên đã
nhờ bố mẹ tôi vào Nam để mang hàng từ đó ra ngoài Bắc cho họ. Nhân dịp này, họ
đã đưa bố mẹ tôi đi chợ mua những món hàng cần thiết và đãi bố mẹ tôi ăn một bữa
no say.
Đến khi những người
đi thăm thân nhân tù cải tạo vơi đi dần, bố mẹ tôi liền giải nghệ mà mở một
quán ăn nhỏ, chuyên bán những “Món Ngon Miền Nam”. Thời gian đó, bất cứ món
hàng nào có xuất xứ "Miền Nam" đều được dân miền Bắc thèm muốn, mua bằng
hết, từ cây kim sợi chỉ, nói chi tới những Món Ngon Miền Nam. Cửa hàng của bố mẹ
tôi vì thế mà lúc nào cũng đông khách.
Học xong đại học,
tôi xin đi làm cho chính phủ, thời gian rảnh thì phụ bố mẹ tôi trông coi công
việc. Cửa hàng bán những món ăn Miền Nam của bố mẹ tôi càng ngày càng phát triển,
không những chỉ bán hàng ăn, bố mẹ tôi còn mở công ty, mua nhiều loại hàng ở Miền
Nam đem ra Bắc bán nữa.
Trong thời gian làm
việc, tôi đã được tiếp xúc với một số bạn bè đi du học trở về, đa số đều nói
ngoại ngữ rất khá, và đều vào Sàigòn làm việc, chứ không chịu ở lại ngoài Bắc,
dù rằng Hà Nội mới là thủ đô. Tôi bắt chước bạn bè, xin bố mẹ tôi cho vào Nam
làm việc, nhân tiện làm đầu cầu mua hàng trong Nam đem ra Bắc.
Vào tới Sàigòn rồi,
đi làm một thời gian rồi, tôi mới thấy là giữa những người giữ chức vụ cao, được
gọi là "lãnh đạo cơ quan" mặc dù là học thức kém, tầm mức hiểu biết về
việc làm rất là hạn chế, nhưng lại là những người ngồi mát ăn bát vàng, hống
hách với dân chúng nhiều nhất. Càng tỏ ra khó khăn, họ càng được hối lộ và lấy
đuợc nhiều tiền trong công quỹ. Những người có bằng cấp, biết làm việc và phải
tiếp xúc với dân chúng nhiều như chúng tôi thì lại bị đẩy cho làm việc thật là
nhiều. Và cũng vì sự hống hách quan liêu của cấp trên, mà chúng tôi bị vạ lây,
bị dân chúng miền Nam ghét bỏ. Thậm chí, chỉ nhìn thấy chúng tôi, hoặc chỉ cần
nghe giọng nói của chúng tôi thôi, họ đã bỏ đi, không quên nói nhỏ với nhau: "Cái
đồ Bắc Kỳ... thấy ghét"
Mặc dù những điều kiện
mà chúng tôi giải thích, là do cấp trên đòi hỏi, chứ chúng tôi không hề muốn
làm như vậy.
Một
vài lần, tôi được
dịp may tiếp xúc với những người ngoại quốc tới làm việc chung với
chúng tôi, họ
có kiến thức rất cao, nói chuyện rất lịch sự. Cũng có những lần tôi
được
tiếp xúc với vài du khách đến nhờ làm thủ tục, tôi thấy họ nói chuyện
cũng hòa nhã và rất hiểu biết. Tầm mắt và kiến thức của tôi được mở
rộng, tôi
muốn được đi du học để mở mang trí tuệ, và cũng để có thể giúp cho công
việc
làm ăn của gia đình tôi được phát triển hơn. Tôi đem việc này ra bàn
với bố mẹ
tôi, cả hai đều đồng ý, nhất là ông bà nội của tôi. Chọn nơi học mới là
điều
khó khăn hơn cả. Đa số các bạn bè của tôi chọn đi học ở Mỹ (nhất là
những đứa
có cha mẹ có quốc tịch đảng), tôi lại thấy Úc là xứ sở hiền hòa có
nhiền nét về
văn hóa nghệ thuật, nên tôi đã chọn môn học về Tài chánh ở trường Đại
Học RMIT
(Royal Melbourne Institute of Technology), Melbourne, nước Úc.
Dù là đã có một ít vốn
liếng tiếng Anh đã học ở trường học cũng như trường đời, nhưng ngày đầu tiên đến
giảng đưởng nghe giảng bài, thú thực là tôi như con vịt nghe sấm, chẳng hiểu
ông Giảng viên tóc vàng nói cái gì cả, vì giọng của ông hoàn toàn là giọng Úc,
khác xa với những phát âm theo tiếng Mỹ mà tôi đã từng nghe ở Việt Nam. Môn học
kế tiếp thì tôi lại còn thua nặng hơn nữa, vì Giảng viên này gốc ngưởi Ấn Độ,
tiếng Anh của ông còn pha nhiều âm thanh R R R thật là khó nghe.
Hai năm trời trôi đi
thật nhanh, ngoài giờ học, tôi xin đi làm thêm ở những nhà hàng ăn ở đường
Victoria, khu vực Richmond. Những nhà hàng này tuy bán món ăn Việt Nam nhưng đa
số khách hàng lại là người da trắng, nên nhờ đó mà tiếng Anh của tôi đã khá hơn
trước và cách phát âm cũng vì thế mà đổi hoàn toàn theo giọng Úc.
Cuối cùng, tôi đã học xong cái bằng Master và sửa soạn khăn gói về nước. Bạn bè của tôi đa số xin ở lại Úc làm việc và sinh sống, tôi không có ý định ở lại, chỉ muốn về phụ giúp gia đình mà thôi.
Cuối cùng, tôi đã học xong cái bằng Master và sửa soạn khăn gói về nước. Bạn bè của tôi đa số xin ở lại Úc làm việc và sinh sống, tôi không có ý định ở lại, chỉ muốn về phụ giúp gia đình mà thôi.
Tôi mua vé máy bay về
Sàigòn trước, nghỉ ở đó một ngày gặp bạn bè rồi mới về Hà Nội ở luôn. Ngồi bên
cạnh tôi là một người đàn ông trung niên, ông không bắt chuyện với tôi mà chỉ
ngồi im lặng, lâu lâu lại nhìn vào cái hộp sắt gắn kín đang cầm trên tay. Mãi
khi xuống phi trường Changi để nghỉ hai tiếng, ông mới mở miệng nhờ tôi cầm dùm
cái hộp sắt để đứng lên lấy hành lý để trên khoang xuống. Cái hộp tưởng là bằng
sắt nhưng lại là hộp bằng nhôm rất nhẹ.
Ngồi trên ghế chờ đợi,
ông mới cho tôi biết đó là cái hộp đựng tro của vợ ông. Vợ ông mới qua đời tuần
trước, đã được hỏa táng và ông đem về Việt Nam để ở nhà mẹ vợ, theo lời trăn trối
của vợ ông trước khi chết.
Tới phi trường Tân
Sơn Nhất, ông chào và cám ơn tôi một lần nữa rồi ai về nhà nấy. Tôi không biết
tên ông là gì và ông cũng chẳng bĩết tôi là ai?
Một năm sau, tôi
quay trở lại Úc để dự lễ phát bằng cấp cho đứa em tôi. Đang đi trên đường
Victoria, thật là ngạc nhiên, tôi đã gặp lại ông khách đi chung máy bay hồi
nào. Ông cho tôi biết đã đem tro tàn của người vợ về xong xuôi rồi, đã đi làm
trở lại. Tôi cũng cho ông hay là tôi đã xin được việc làm và đang làm việc ở
Sàigòn, nhân dịp dự lễ phát bằng cấp cho đứa em, tôi xin nghỉ một tháng để đi
thăm những thắng cảnh Úc mà trong suốt hai năm đi học tôi không có thì giờ đi
đâu cả. Lần này ông cho tôi số điện thoại và nói nếu tôi muốn đi chơi thăm
phong cảnh, ông sẽ xin nghỉ đưa tôi đi cho vui.
Thế là chúng tôi
quen nhau. Ông tên Thanh, là Lính Cộng Hòa, ngày cuối cùng của cuộc chiến, ông
là một Chuẩn Úy 18 tuổi mới ra trường, đánh trận đầu tiên và cũng là trận cuối
cùng của đời lính. Ông có hai đứa con nhưng chúng nó đi làm ở Tiểu bang khác,
lâu lâu mới về thăm nhà, còn tôi, tôi ba mươi lăm tuổi rồi, và chưa có ý định
gì về tương lai cả.
Về lại Sàigòn, chúng
tôi vẫn tiếp tục emails qua lại với nhau. Có một lần ông về Việt Nam thăm tro
tàn của vợ và nhân dịp đó đi chơi uống cà phê với tôi. Qua năm sau, tôi muốn trở
lại Úc một lần nữa để đi thăm Đảo San Hô ở Queensland, Thanh cũng xin nghỉ để
đi chơi cùng với tôi.
Thanh đã ngỏ lời muốn
cưới tôi làm vợ. Suy đi nghĩ lại, tôi tuy còn độc thân nhưng đã lớn tuổi rồi
(so với Thanh thì tôi còn nhỏ lắm), nên đồng ý làm vợ Thanh.
Thanh làm bữa tiệc
gia đình để ra mắt tôi với hai đứa con và bạn bè. Hai đứa con của Thanh nói
toàn tiếng Anh, tụi nó không có ý kiến gì, miễn thấy ba nó vui là được rồi. Lần
đầu tiên gặp những người bạn của Thanh, tôi vui miệng kể lại cuộc đi chơi ở Đảo
San Hô:
“Thật là... Hoành
Tráng chưa từng thấy. Đi xem đảo xong, chúng em đi phố mua hàng, chỗ nào cũng
bán Khuyến mãi, thích ghê..”
Cả nhà đang ồn ào,
tôi chợt thấy không khí có vẻ im lặng sau khi tôi nói chuyện, những người bạn của
Thanh nhìn tôi có vẻ e dè lắm, họ vẫn nói chuyện, nhưng hình như không có nói
chuyện với tôi. Một bà vợ của người bạn thân của Thanh đã hỏi thẳng tôi:
“Cô là... du học
sinh hả? Lấy chồng già để... được ở lại Úc hả?”
Khi vào trong bếp lấy
thêm đồ ăn, tôi thoáng nghe một người nào đó nói nhỏ với Thanh:
“Mày lấy... Việt Cộng
Con đấy à?”
Tôi nghe Thanh trả lời:
“Đâu phải ai nói giọng
Bắc cũng đều là Việt Cộng hết đâu!”
Tiệc cưới của chúng
tôi mới là phiền phức, mặc dù chúng tôi chỉ tổ chức đơn giản thôi, nhưng bạn bè
của Thanh nhận thiệp mời, họ đều có vẻ ngại ngùng, không muốn tham dự. Thanh
nói với tôi:
“Ông Hội trưởng của
anh họp cả hội lại để lấy quyết định... có dự tiệc cưới của anh hay không? Họ
quyết định... đi với tư cách cá nhân mà thôi, vì dù sao cũng là bạn bè.”
Tôi ngần ngừ nói với
Thanh:
“Anh ơi... nếu thấy
khó khăn quá, hay là... mình đừng có lấy nhau nữa... Sao họ lại... kỳ thị với
em như vậy? Em nói tiếng Bắc, vì em sinh đẻ ở ngoài Bắc, chứ em đâu có tội tình
gì đâu?”
Thanh an ủi tôi:
“Em cũng phải hiểu
cho họ, họ cũng như anh, đều là những người bị bọn Cộng sản Bắc Việt xâm chiếm
đất nước, bắt tù bắt tội sống chết đủ điều. Suốt ngày họ nghe cái giọng Bắc kỳ
mạt sát họ, nó thấm vào đầu, nên không thể có cảm tình với cái giọng Bắc được.
Anh hiểu em, nhưng họ chưa hiểu và chưa thông cảm cho em. Cứ để một thời gian,
họ sẽ hiểu em đó mà.”
Tôi sinh đứa con
trai đầu lòng, đặt tên cháu là Nam. Ngày thôi nôi, anh chị nó đến dự, vui vẻ
thay phiên ẵm em, đứa con gái út của Thanh ẵm em vừa cười vừa nói:
“My... baby brother”
Những người bạn chúc
mừng Thanh... “Đáo Mã Thành Công”.
Khi tôi tháo chiếc
dây chuyền hộ mạng của tôi đeo vào cổ cho Nam, một bà ngạc nhiên nhìn sợi giây
mà hỏi tôi:
“Cái gì vậy?”
“Dây chuyền hộ mạng
của em đấy.”
“Đẹp quá nhỉ! Ai khắc
mà đẹp quá, hình như là hai cái mặt chữ khắc trên gỗ đen thì phải.”
Chồng tôi biết tôi
có sợi dây chuyền này, nhưng coi đó là đồ nữ trang của tôi thôi, nên chẳng để ý
đến. Khi thấy ai cũng nhìn vào nó, tôi vui miệng kể lại lai lịch của sợi giây
chuyền cho tất cả cùng nghe:
Tôi sinh ra ở Hà
Giang. Nói là Hà Giang chỉ để cho có nơi có chốn trên bản đồ mà thôi, chứ thực
ra, nơi tôi sinh ra không có tên trên bản đồ miền Bắc. Đó là một nơi ở giữa rừng
núi âm u không có vết chân người.
Theo bố tôi kể lại,
vào thời năm 1954, khi mọi người dân đều muốn di cư vào Nam, gia đình tôi gồm
có ông bà nội, ba mẹ tôi và gia đình của các bác các chú đã gồng gánh từ quê
lên Hải Phòng, để xuống tầu di cư vào Nam. Khi đang ở trên đường thì gặp một
đám người khác cũng nhận là đi di cư và biết có một con đường tắt đi Hải Phòng
rất gần, thế là cả bọn theo chân đám người này. Đến chiều tối thì có xe hàng tới
chở tất cả, nói rằng đi xe cho chóng đến nơi. Xe chở đi tới một vùng rất xa,
tài xế cho mọi người xuống mà nói rằng, nghỉ đỡ đêm nay, sáng mai sẽ có xe khác
tới chở thẳng đến Hải Phòng. Ai cũng vui mừng trải chiếu ra ngủ qua đêm. Sáng
hôm sau, có xe tới đón thật, nhiều xe lắm, xe nào cũng chở đầy người. Mọi người
vui mừng kéo nhau lên xe đi Hải Phòng. Xe đi cả ngày trời vẫn không tới vùng biển
như mọi người mong đợi, trái lại, xe chở mọi người tới một nơi đầy lính canh có
súng. Những người lính này chĩa súng bắt tất cả ngồi im không được hỏi han gì cả,
họ khiêng từng miếng vải nhà binh tới phủ kín xe rồi bắt đầu chạy suốt đêm. Đến
sáng mới tói nơi, cả bọn được đẩy xuống xe để bị chỉa súng bắt đi bộ vào trong
rừng. Tới nơi, cán bộ tập họp mọi người lại, kết tội cả nhóm là đã phạm tội phản
lại nhân dân, bỏ trốn vào miền Nam, bị đầy vào đây đến bao giờ được cách mạng
và nhân dân khoan hồng, sẽ được về với nhân dân.
Đến lúc đó, mọi người
mới biết rằng đã bị bọn Cộng sản đưa người ra dụ dỗ đi theo chúng để rồi bị đi
đầy vào vùng rừng núi âm u không biết ngày về. Lâu lâu lại có từng đoàn người
khác hoặc được xe chở, hoặc bị xiềng xích đi bộ ngang qua để tới những nơi xa
xôi hoang vắng khác được gọi là “Cổng Trời”.
Vào khoảng năm 1960,
có thêm một nhóm tù nữa được đưa tới Cổng Trời, đám người này thỉnh thoảng được
ra ngoài làm rừng, họ tự xưng là “Biệt Kích Miền Nam” được thả ra Bắc để hoạt động,
chẳng may bị bắt.
Tôi sinh ra vào năm
1973 ở cái vùng rừng núi âm u, trại tù của những người muốn di cư vào Nam năm
1954 và trải qua thời thơ ấu ở giữa nơi núi rừng trùng điệp không bóng người
này. Khi tôi được năm tuổi, một hôm đi theo cha chặt mây, đã bị ngã xuống hố
sâu. Bố tôi bất lực nhìn thân xác của tôi mà không có cách nào để cứu. May
thay, một nhóm Biệt kích đi ngang, thấy vậy đã thòng dây đu xuống tận vực xâu
mà cứu tôi lên và đưa cả hai bố con tôi về tận nhà. Từ đó, lâu lâu những người
Biệt Kích này lại đi ngang vào thăm gia đình tôi. Người Biệt kích cứu tôi nhận
tôi làm con nuôi và đã gỡ sợi dây chuyền ông đang đeo để đeo vào cổ tôi mà nói:
“Tặng cho cháu cái
bùa hộ mạng đó.”
Ông giải thích cho bố
tôi biết, sợi dây chuyền này do ông đẽo gỗ trong rừng mà khắc thành hai chữ BK
tức là Biệt Kích. Các chú này đã khuyên bố mẹ tôi nên tìm cách về thành phố mà
sống, chứ đừng ở mãi nơi rừng hoang cô quạnh này mà bỏ phí cuộc đời của những
dám con cháu.
Năm 1979, khi Trung
cộng bắt đầu đánh Miền Bắc, những Biệt Kích đã bị đem đi nơi khác, bố mẹ tôi nhớ
lời các Biệt Kích mà tìm đường trốn về Hà Nội, vì thế, tôi mới được đi học và sống
cho đến ngày hôm nay.
Khi tôi kể xong câu
chuyện, mọi người đều thay nhau cầm lấy sợi dây chuyền của con tôi một cách
trân trọng và quý mến. Người bạn mà trước đây gọi tôi là “Việt Cộng Con” là người
đầu tiên hỏi tôi:
“Gia đình của chị bị
đưa đi... vùng kinh tế mới Cổng Trời đấy à? Chỉ vì muốn di cư mà bị đầy ải suốt
hơn hai mươi năm trời đấy sao? Bọn Việt cộng chúng mày sao mà tàn ác thế! Cám
ơn Trời Phật đã phù hộ cho gia đình chị, những người Việt Nam yêu Tự Do, còn sống
được cho đến ngày hôm nay.”
Tôi mỉm cười nói
thêm vào:
“Tôi cảm ơn Trời Phật
và cảm ơn Chúa nữa. Ông bà chúng tôi không đi tìm Tự Do vào năm 1954 được, thì
đến đời cháu tức là đời của chúng tôi, chúng tôi đã tìm được Tự Do rồi đấy. Nhờ
các anh Biệt Kích Miền Nam mà tôi được cứu sống, nhờ lời khuyên của các anh mà
bố mẹ tôi mới dám trốn vùng cải tạo để về được tới Hà Nội. Cũng nhờ những bà mẹ,
bà vợ của những người Lính Miền Nam bị tù cải tạo mà bố mẹ tôi mói có cuộc sống
đáng sống. Các anh chị thấy không, nhờ tình người, nhờ những người Miền Nam mà
chúng tôi mới sống đến ngày hôm nay, chứ đâu có bác nào đảng nào cứu giúp chúng
tôi đâu? Cũng vì thế mà dù có ai nói gì thì nói, tôi cũng cứ lấy người Lính Cộng
Hòa mà tôi quý mến.”
Từ hôm đó, tôi thấy
tất cả bạn bè của Thanh đã thay đổi thái độ với tôi. Các anh đã gọi tôi là “Chị
Thanh” và các bà đã gọi tôi bằng “Trinh” hoặc là “Cô Em Gái Bắc Kỳ”.
Con tôi đã được năm
tuổi rồi, cháu đã đi học mẫu giáo, tôi có thì giờ đi tìm một công việc tạm thời.
Tôi tìm đến một văn phòng Luật Sư của người Việt để xin làm Điện Thoại Viên.
Ông Luật Sư phỏng vấn tôi xong, nói với tôi:
“Để chú sắp xếp cho cháu
làm hồ sơ nhé, còn công việc nghe điện thoại, chú sẽ tìm người khác”
Tôi thông cảm với
ông Luật sư, mọi người vẫn còn... ác cảm, còn... kỳ thị với giọng nói Bắc Kỳ của
tôi.
Tôi xin lỗi đã nói
như vậy, nhưng thật sự tôi không biết dùng chữ gì để nói về hoàn cảnh của tôi.
Chồng tôi đã thông cảm
với tôi, anh Thanh đã nói với tôi:
“Người ta nói “Cái
áo không làm nên ông thầy tu” Nhưng thực sự cái áo đã làm cho người ta nhìn lầm
nguời mặc nó là thầy tu. Em không những nói giọng Bắc, em còn dùng những từ ngữ
mà cái đám Việt cộng thường dùng, ngay cả những người Miền Nam hay những người
Lính Cộng Hòa mà nói cái giọng đó, cũng bị ghét, nói chi là Bắc Kỳ rặt như em.
Em cứ giữ cái giọng
Bắc Kỳ của em, nhưng em đừng... Hoành Tráng, đừng... Bức Xúc nữa, có được không?”
Tôi suy nghĩ...
Đúng! Chồng tôi nói đúng.
Nhập Gia Tùy Tục –
Nhập Giang Tùy Khúc.
Tôi đã lấy chồng
Lính Cộng Hòa rồi, mà tôi lúc nào cũng có cái giọng Bắc Kỳ Hai Nút (75, Bắc kỳ
chín nút tức là Bắc kỳ 54) thì ai mà chịu nổi.
Bây giờ, tôi không
còn... “Xử Lý” nữa, mà tôi phân tích, tôi tìm hiểu từng trường hợp mà giải quyết
cho thỏa đáng. Mỗi khi đi ra ngoài đường, nghe tôi nói chuyện, không còn ai
quay lại nhìn tôi rồi bỏ đi chỗ khác nữa.
Đôi khi, những ông
bà bạn của anh Thanh vẫn gọi tôi là “Việt Cộng Con”
Nhưng họ nói chỉ để
mà đùa dỡn mà thôi, chứ không còn châm chọc như trước nữa.
Riêng phần con tôi,
cháu Nam, lúc nào cháu cũng khoe:
“Con là con của
“Lính Cộng Hòa” mà!”
NGƯỜI VIỆT CỦA TÔI,
LÀ THẾ ĐẤY.
CÂU CHUYỆN DỄ THƯƠNG.
Trả lờiXóa