Thứ Năm, 17 tháng 5, 2012

Tống Biệt Của Tản Đà


Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu ( 傘沱, 1889 - 1939) người tỉnh Sơn Tây là một nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch nổi tiếng của Việt Nam. Bút danh Tản Đà của ông là tên ghép giữa núi Tản Viên và sông Đà, quê hương ông.

Trong văn đàn Việt Nam đầu thế kỷ 20, Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sáng, vừa độc đáo, vừa dồi dào năng lực sáng tác. Ông là một cây bút phóng khoáng, xông xáo trên nhiều lĩnh vực. Đi khắp miền đất nước, ông đã để lại nhiều tác phẩm với nhiều thể loại. Ông đã từng làm chủ bút tạp chí Hữu Thanh, An Nam Tạp Chí (Số đầu tiên ra ngày 1 tháng 7 năm 1926, Tản Đà làm chủ báo, thư ký tòa soạn là Ngô Tất Tố).

Với những dòng thơ lãng mạn và ý tưởng ngông nghênh, đậm cá tính, ông được đánh giá là người chuẩn bị cho sự ra đời của thơ mới trong nền Văn học Việt Nam, là "gạch nối giữa hai thời kỳ văn học cổ điển và hiện đại".

Ngoài sáng tác thơ, Tản Đà còn giỏi trong việc dịch thơ Đường thành thơ lục bát và được biết đến như một người dịch thơ Đường ra ngôn ngữ Việt hay nhất.

Tony Son Nguyen

***


Phạm Ngọc Diệp

Nét Đẹp Bài Thơ Tống Biệt Của Tản Đà


Khi gắn bó thân thiết thấu hiểu tiếng lòng người tương tri, ta càng ngậm ngùi giây phút chia ly. Cảm giác cô đơn, lạnh lẽo, trống vắng thấm thía… thấm dần… thấn dần… từng giọt buồn giọt đắng thiêng liêng rỏ trong lòng…


Thi ca xưa từng in dấu những cuộc chia ly cảm động không lời mà đượm buồn thương nhớ khi Lý Bạch tiễn bạn ở “Hoàng hạc lâu”, khi Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều, và nhân gian không thể quên cuộc chia ly không hẹn ngày tái ngộ đầy ngậm ngùi của tiên nữ tiễn hai chàng Lưu Nguyễn trong bài “Tống Biệt” của thi sĩ Tản Đà chốn Thiên Thai:

Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai
Suối tiễn, oanh đưa, những ngậm ngùi
Nửa năm tiên cảnh
Một bước trần ai
Ước cũ, duyên thừa, có thế thôi
Đá mòn, rêu nhạt
Nước chảy, huê trôi
Cái hạc bay lên vút tận trời
Trời đất từ đây xa cách mãi
Cửa động
Đầu non
Đường lối cũ
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi

Cuộc chia ly diễn ra từ cõi mộng. Thiên thai, đó là chốn hạnh phúc nhất, nơi đẹp nhất trong quan niệm của người Phương Đông. Hai chàng Lưu Thành, Nguyễn Triệu may mắn lạc vào cõi tiên, nhưng rồi tình yêu quê hương tha thiết đã khiến chàng từ giã chốn tiên cảnh về cõi trần ai. Cuộc “tống biệt” của các nàng tiên nữ, cuộc chia ly không hẹn ngày trở lại đó không có nước mắt rơi, chỉ có hoa đào rơi:

Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai

Lá đào dệt lối về. Hẳn lúc Lưu Nguyễn đến đây, hoa đào còn chúm chím, lá đào xanh thắm đón người nhập trốn Thiên Thai… thế mà giờ đây… Câu thơ mở ra gợi cảm giác buồn, rơi rụng, tàn phai. Nhớ khi xưa nàng Mỵ Châu rắc áo lông ngỗng dẫn đường chàng Trọng Thủy để tình yêu được đến với tình yêu thật cảm động, thì nay lá đào rơi rắc vô tình như níu kéo người… cũng cảm động biết bao. Chốn Thiên Thai, chốn hạnh phúc bất tử, và hoa đào là biểu tượng cho cái đẹp, cho mùa xuân tình yêu, vậy mà… lá đào vẫn rơị.”Lá đào rơi” tan tác tang thương như một nghịch lý. Cây đào bất tử nơi cõi tiên sao lại rơi rụng, héo tàn ? Cuộc chia ly thấm thía nỗi buồn tang tóc được báo hiệu qua chi tiết lạ lùng này. Cái bất tử cũng phải chết ! Ghê gớm thay ! cái đẹp bất tử rồi cũng sẽ tàn, mong manh. ” Lá đào rơi rắc phủ đầy lối đi như những giọt hồng của nàng tiên nữ tha thiết mong chàng ở lại. Dường như lá đào rơi rắc như tan nát trong cõi lòng nàng tiên nữ… lặng thầm… dứt lòng nhìn người ra đi mà không níu lại được. Lá đào rơi làm nhẹ thêm, chậm thêm bươc người đi.

Không có tiên nương, không có người về, không nghe lời dặn dò tiễn đưa, chỉ thấy cảm xúc ngậm ngùi. “Ngậm ngùi” cả kẻ ở và người đi:

Suối tiễn, oanh đưa, những ngậm ngùi

Vẫn là con suối ấy, những chú oanh ấy, thủa trước reo vui đón bước chân người đến, mà nay buồn lắng lòng khi người đi. Thiên nhiên tiên cảnh thấm tình. Nỗi buồn tự tiếng lòng tiên nữ như lan ra cảnh vật, thấm dượm lòng u hoài vào từng chú oanh nhỏ, dòng suối tiên. Cả chốn Thiên Thai hạnh phúc giờ đây chìm trong nỗi buồn. Từ “tiễn đưa “ngắt vụn ra thành “suối tiễn”, “oanh đưa” như tiếng lòng tiên nữ dùng dằng không nỡ xa người. “Người buồn cảnh có vui đâu bào giờ”. Hai nỗi buồn vọng vào nhau tạo cảm giác buồn mênh mang. Câu thơ đến đây trùng xuống trĩu nặng nỗi niềm: “những ngậm ngùi”. Hai chữ “ngậm ngùi” cuối câu lắng đọng lại như hai dấu lặng đơn trong âm nhạc vậy. Âm vang được tạo nên trong dòng cảm xúc. Đừng chỉ đọc thơ, hãy lắng lòng lại nghe thơ. chất nhạc trong thơ nói lên thần tình cảm xúc nàng tiên nữ. Đây là lúc dừng chân lưu luyến, cảnh níu lại. Tình níu lại. Cảnh soi thấu đến tận đáy tâm hồn người mộng đang đầy ắp yêu thương, u buồn. Giây phút chia ly bịn rịn thiêng liêng ấy… im lặng… không một lời nói.
Trong khoảng không gian yên lặng, trong giây phút xa cách người thương, nàng tiên ngậm ngùi nhớ lại ” nửa năm tiên cảnh “. Hạnh phúc nay còn đâu. Những giây phút thần tiên nay sắp tuột trôi. Hạnh phúc trôi nhanh lắm, nhất là hạnh phúc trên cõi thiên thần. Đành rằng một ngày chốn Thiên Thai bằng một năm chốn trần ai, nhưng sao ngắn ngủi như giấc mộng vậy. Và giấc mộng dần dần đi vào quá khứ:

Một bước trần ai

Hai tiếng “trần ai” vang lên thật xúc động. Nửa năm lại ngắn. Một bước đã thành xa. Bước chân một đi không trở lại này không chỉ là bước chuyển động trong không gian, mà còn là bước qua ranh giới giữa hai cõi, cõi tiên và cõi trần ai. Nửa năm hạnh phúc êm đềm nay một bước, một bước thôi đã mất hết tất cả. Câu thơ đang dang dài bảy chữ ở câu một, hai chợt đọng lại thành câu bốn chữ với thanh trắc đầu và cuối câu: “Nửa năm tiên cảnh” như tiếng khẽ kêu nhẹ thảng thốt. Trời ơi thời gian trôi nhanh quá. Hai câu thơ bốn chữ ngắt nhịp 2/2 như lời kể đứt hơi, thủ thỉ như tiếng nấc, tiếng nghẹn ngào khẽ thổn thức từng đợt nhỏ. Sau tiếng thổn thức, tâm hồn bâng khuâng mất mát lại lan ra:

Ước cũ, duyên thừa có thế thôi

Có thế thôi một kiếp duyên thừa… có thế thôi một ước mong. Câu thơ như tiếng thở dài. Ước nguyện nay đã cũ, tình duyên hòa hợp đã trôi vào quá khứ. Từ “duyên thừa” nghe sao bi ai, tội nghiệp. Hạnh phúc mộng ảo thoáng qua, chợt đến rồi chợt đi. Còn lại tiên nữ đối diện với tiếng lòng tiên nữ, hay chính thi nhân Tản Đà đối diện với chính mình? Giấc mộng êm đềm du dương nơi bồng lai tiên cảnh chốn Thiên Thai nay đã đi rồi. Sự thật phũ phàng… hạnh phúc cũ thừa. Chỉ có vậy thôi sao. Câu thơ thấm thía tâm trạng nối tiếc cho một cuộc sống tiên cảnh đã qua, và ẩn trong từng chữ, từng lời như thấp thoáng tâm hồn thi sĩ. Dòng cảm xúc trôi theo thời gian:

Đá mòn, rêu nhạt
Nước chảy, huê trôi

Câu thơ như mộng như ảo, cũng như thực vậy. Thời gian trôi đi, cuốn theo những tinh hoa cuộc đời. “Trơ như đá” cũng phải mòn. Đá tượng trưng cho cái sắt đá, bất tử, vậy mà cũng phôi pha mìn đi theo năm tháng. Màu thời gian nhạt nhòa. Nhạt nhòa… nhạt nhòa màu rêu xanh thắm nay nhạt nhẽo vô hồn. Câu thơ gợi cảm giác mất mát không nắm bắt được. và dòng “nước chảy”, dòng thời gian chảy, dòng đời chảy cũng không níu giữ được cái đẹp bất tử. “Huê trôi” theo dòng nước, không phải là “hoa trôi”. “Huê” là hoa, nhưng nghe sao thê lương ảo não u buồn. Từ “huê ” u hoài ngân nga xoáy vào lòng người, đọng trong ta tiếc thương cái đẹp. Cái đẹp mong manh yểu mệnh ấy bị dòng đời cuốn trôi đi. “Cánh hoa rụng chọn gì đất sạch ” nghe thật thương tâm, nhưng cánh hoa tiên đáng nâng niu bị dòng đời cuốn trôi nghe sao bi thương lạ kì. Hình ảnh “đá mòn,rêu nhạt” “nước chảy, huê trôi” như đôi mắt tiên nữ nậmm ngùi nhớ lại hạnh phúc đẹp tươi thanh khiết ngày xưa với hai chàng quá đỗi mong manh.. Giờ đây còn gì nữa đâu… hoa trôi đi có bao giờ trở lại? “Một bước trần ai” “có thế thôi”. Hai câu thơ bốn chữ thu lại ngắt nhịp 2/2 rồi lại lan tỏa cảm xúc ra câu bảy chữ như những nhịp sóng lòng lúc nhỏ lúc dài cuộn lên trong lòng tiên nữ. Dường như lắng lòng lại nghe kĩ bài thơ… bài thơ như một bản nhạc du dương. Ta nghe được từng nhịp đập trái tim thi sĩ Tản Đà, từng đợt cảm xúc khẽ đâng tràọ.rồi lại đọng lại… du dương… tha thiết… bi ai… Thả hồn mình vào cõi mộng cõi tiên, tiếng hạc thức tỉnh người mộng thực tại phũ phàng:

Cái hạc bay lên vút tận trời

Tiên nữ đã cưỡi hạc bay về chốn tiên rồi. Cái hạc nghe sao thanh khiết thánh thiện lạ thường. Thi sĩ Tản Đà thật tài ba, tinh tế khi chọn từ “vút”. Các nàng tiên cưỡi hạc bay đi thoáng rất nhanh, “vút”, không để lại dấu vết gì. Giây phút chia tay đã dứt, tiên nữ bay về trời xa cách:

Trời đất từ đây xa cách mãi

Bầu trời trong thơ “vút tận trời” là bầu trời cao thăm thẳm chốn cao, còn bầu trời “trời đất từ đây xa cách mãi” không chỉ là trời đất mà là tình người. Tình của người trên trời cõi Thiên Thai và tình của người dưới đát cõi trần ai từ đây chia xa mãi mãi. Từ “mãi” đứng cuối câu kéo dài vô tận. Mãi mãi rồi ta không còn gặp nhau. Không bao giờ nữa quay trở lại uyên ương mộng vàng. Các nàng tiên nữ nhìn:

Cửa động
Đầu non
Đường lối cũ

Buồn tê tái. Giờ đây sống trên cõi bất tử hạnh phúc, mà các nàng đâu có hạnh phúc. Cảnh đấy… người đâu… Nhìn cửa động, đầu non gợi nhớ kỉ niệm xưa. Cảnh vẫn đấy nhưng đã thành cũ mất rồi.

Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi

Câu thơ nhẹ nhàng, lâng lâng… thanh khiết dâng chơi vơi trong tâm hồn người đọc “Nghìn năm” rồi… chốn Thiên Thai đã biến đi rồi. Còn lòng người thì thơ thẩn… kiếm tìm tiếng lòng tri âm tri kỉ, tìm người tương tri mãi bâng quơ. Chỉ còn ánh trăng, bóng nguyệt vĩnh hằng mà thôi. Câu thơ kết là tiếng lòng thi sĩ Tản Đà ngông, mộng và say. Ở cõi tiên, ông là khách tục. Ở chốn trần ai ông là khách tiên. Tâm hồn trái tim Tản Đà yêu đời vô cùng, nhưng cuộc đời không xứng đáng với tâm hồn thanh cao đó. Ông đã tìm đến cõi mộng. Mộng đeo đẳng ông từ “Giấc mộng con”, “Giấc mộng con I”, “Giấc mộng con II”, đến “Giấc mộng lớn”. Ông sống trong cõi mộng vươn lên nét dẹp tinh túy thuần khiết. Nhưng ông vẫn là con người đang sống trong cuộc đời này. Ông không thể trốn mãi được. Dù “tỉnh mộng lại muốn mộng mà chơi”, dù “nghĩ đời lắm nỗi không bằng mộng”, thì ông vẫn cứ là người đang sống. Ông không thể thoát ly cuộc đời. Sự trở về cõi trần ai của Lưu Nguyễn dường như là sự trở về với thực tại của con người mơ mộng Tản Đà. ” Tiếc mộng bao nhiêu lại ngán đời” nhưng rồi “giấc mộng mười năm đã tỉnh rồi ” Mộng của ông là mộng thanh cao của những con người thập kỉ 20. Cuộc đời ấy… dòng đời ấy. Tản Đà cứ đi tìm mãi, tha thiết khắc khoải một tiếng lòng tương tri:

Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi

Tản Đà, vị “khách trích tiên đánh vỡ chén ngọc nay đã hết hạn đi đày. Cái hạc đã bay lên vút tận trời”. Tâm hồn tản Đà đã về cõi tiên. Cầu mong cho ông tìm được tiếng tri âm, giữ mãi cái đẹp, đừng mong manh để khỏi ngẩn ngơ “thơ thẩn bóng trăng chơi”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.